CÁC TRÀO LƯU CƠ BẢN TRONG LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN VĂN HỌC
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trào lưu văn học là một hiện
tượng có tính chất lịch sử. Đó là một phong trào sáng tác tập hợp những tác giả,
tác phẩm gần gũi với nhau về cảm hứng, tư tưởng, nguyên tắc miêu tả hiện thực,
tạo thành một “dòng sông lớn” có bề thế trong đời sống văn học của một dân tộc
hoặc một thời đại.
Kể từ những năm 30 của thế kỉ
XIX, trong sự đảo lộn sâu sắc của xã hội và sự yếu thế của đức tin tôn giáo, chủ
nghĩa tư bản bắt đầu phát triển và lên ngôi thống trị ở Âu châu. Sự phát triển
của xã hội là tiền đề cho sự phát triển về triết học, các khoa học xã hội và
khoa học tự nhiên. Chính những bước tiến đó cho người ta nhận thức đúng đắn hơn
về con người – nhân vật trung tâm của nghệ thuật, hiểu rõ hơn mối quan hệ giữa
con người và tự nhiên, con người và xã hội. Trong bối cảnh đó đã xuất hiện nhiều
khuynh hướng, trào lưu văn học nghệ thuật: trào lưu cổ điển, trào lưu lãng mạn,
trào lưu hiện thực, trào lưu hiện sinh.... Mỗi trào lưu văn học được nảy sinh
trên một hoàn cảnh lịch sử và có cơ sở triết học nhất định. Ở trào lưu văn học
nào cũng đóng góp cho nền văn học nhân loại những tên tuổi tác giả ưu tú cùng
những tác phẩm tiêu biểu.
II. NỘI DUNG
1. Trào lưu văn học cổ điển
Trào lưu văn học cổ điển là một
hiện tượng văn học lịch sử - cụ thể, hình thành trên một cở sở xã hội và ý thức
hệ nhất định, tiêu biểu nhất là của thế kỉ XIX ở Pháp.
Về cơ sở triết học
Cơ sở ý thức triết
học của chủ nghĩa cổ điển là chủ nghĩa duy lí của Đêcac. Trong tiểu luận triết
học nổi tiếng nhan đề “Luận về phương pháp” ông đã đề xướng triết học duy lí –
đánh giá cao khả năng vai trò của tư duy lí luận. Theo ông, lí trí không những
là giai đoạn cao của nhận thức thế giới, mà còn là nguồn gốc độc lập, không phụ
thuộc vào tri giác cảm tính, lí trí có thể đem lại sự hiểu biết về tất cả những
gì mà giác quan của con người không đạt tới. Nói về vấn đề cơ bản của triết học
là mối quan hệ tư duy và tồn tại, Đêcac nêu một nguyên lý: “Tôi tư duy tức là
tôi tồn tại”.
Triết học duy lí của
Đêcac đã in dấu đậm nét trong văn học cổ điển chủ nghĩa Pháp, từ lí luận đến
sáng tác, từ sự lựa chọn đề tài đến những thành tựu nghệ thuật.
Về phong trào sáng
tác, đội ngũ nhà văn và số lượng tác phẩm
Phản ánh những nhu
cầu, tính chất của nhà nước phong kiến tập trung thế kỉ XIX và chủ nghĩa duy lí
của Đêcac, chủ nghĩa cổ điển xem nhân vật trung tâm có tính chất lí tưởng là những
con người đặt lí trí lên trên tình cảm, chiến thắng đam mê, coi nhẹ lợi ích cá
nhân, phục tùng cho lợi ích và danh dự của quốc gia, dòng dõi. Trào lưu văn học
cổ điển phát triển mạnh mẽ nhất ở Pháp với sự xuất hiện của nhiều tên tuổi nhà
văn lớn. Trong đó có thể kể tới các tác giả: Malecbơ, Paxcan, La Phôngten,
Cornây, Raxin, Môlie...
Cornây là nhà soạn kịch nổi tiếng của Pháp. Bi kịch Cornây giáo dục lòng yêu nước, đề cao danh dự của người công dân.
Những nhân vật trong kịch của ông đều là người anh hùng chiến thắng mọi trở ngại,
cám dỗ, luôn sáng suốt làm chủ lấy mình.“Lơxit”
là vở kịch nổi tiếng nhất của Cornây.
Jăng Raxin là nhà thơ cổ
điển chủ nghĩa mẫu mực. Raxin sáng tác không nhiều. Có thể kể tới một số tác phẩm tiêu biểu như: “Ăngdromac”, “Bêrênix”, “Atali”...
Môlie là một trong những
nhà soạn kịch lỗi lạc nhất của chủ nghĩa cổ điển Pháp và của cả nền văn học
Pháp. Tiếng cười trong hài kịch của Môlie đã tố cáo những tiêu cực, những điều
lố lăng, cái xấu, cái rởm đời...của đủ mọi tầng lớp, không kiêng nể ai. Chế độ
quân chủ chuyên chế, tầng lớp quý tộc lỗi thời, tôn giáo đè nén hạnh phúc của
con người, tư sản ham mê danh vọng...là những mục tiêu đả kích của ông. Bên cạnh
đó, ông luôn luôn ca ngợi người bình dân, người lao động với lương tri trong
sáng, lành mạnh. Có thể kể tới một số tác phẩm tiểu biểu của ông như: “Đông Juăng”, “Anh ghét đời”, “Tactuyp”, “Lão
hà tiện”... Với tiếng cười mang tính chất duy lí, tiếng cười Môlie chính là
vũ khí của kẻ mạnh, của những thế lực tiến bộ đang chôn vùi những tàn dư lạc hậu
của chế độ cũ.
2. Trào lưu văn học lãng mạn
Trào lưu văn học
lãng mạn hình thành một cách tiêu biểu ở Tây Âu vào sau Đại cách mạng tư sản
Pháp năm 1789.
Về cơ sở triết học:
Trào lưu văn học
lãng mạn chịu ảnh hưởng khá sâu của học thuyết “Chủ nghĩa xã hội không tưởng” của
Ôwen và Phuriê. Đặc biệt, trào lưu lãng mạn còn có quan hệ mật thiết với triết
học duy tâm cổ điển Đức. Những quan điểm triết học, mĩ học của các nhà duy tâm
cổ điển Đức: Căng, Hêghen, Gớt...đều đề cao con người, thể hiện sự phát triển mạnh
mẽ của chủ nghĩa cá nhân trong xã hội tư sản cận đại. Mặt tích cực của nó là
nâng cao sự tôn nghiêm, khẳng định ý thức tự chủ ở con người. Tuy nhiên, triết
học và mĩ học duy tâm cổ điển Đức lại đề cao con người tách khỏi thực tế xã hội
và lịch sử. Từ trong mối quan hệ phức tạp đó, các nhà lãng mạn tích cực và tiêu
cực sẽ khai thác theo những khía cạnh nào thích hợp với quan niệm của mình.
Về phong trào sáng
tác, đội ngũ nhà văn và tác phẩm tiêu biểu
Thật khó để thâu
tóm tất cả tính chất bao trùm trong các tác phẩm của những nhà lãng mạn. Tuy
nhiên, có thể đúc kết một vài nét đặc thù làm nên những thuộc tính, những chủ đề
của lãng mạn: sự đề cao cái tôi cá nhân, hay nói về nỗi buồn lãng mạn, viết nhiều
về thiên nhiên....
Từ những năm 20,
trào lưu văn học lãng mạn ở Pháp đã phát triển mạnh mẽ với các nhà văn nổi tiếng:
Lamactin, Vinhi, Huygô, Xăng, Muyxê.
Lamactin là nhà thơ tiêu biểu của trào lưu văn học lãng mạn Pháp. Lamactin viết
những tập thơ trữ tình nổi tiếng: “Trầm
tư”, “Trầm tư mới”, “Những hài hòa”... Có thể nói Lamacstin là người khai
phá một giọng ca mới, là nhà thơ trữ tình xuất sắc khi nói về thiên nhiên gắn với
tâm tình con người.
Vinhi bắt đầu sáng tác năm 1820 và dần dần nổi tiếng với các tác phẩm: “Moizơ”, “Xanh Mac”, “Stenlê”...
Victo Huygô là nhà văn lãng mạn ưu tú của nước Pháp. Trong hơn 60 năm sáng tác, ông
đã để lại hơn 20 vở kịch, 10 tiểu thuyết lớn và truyên vừa, 15 tập thơ gồm
153873 câu thơ, hàng trăm bài chính luận, lí luận văn chương, hàng nghìn bức
thư tình là những áng văn chương hay...Những tập thơ đầu “Đoản thi”, “Về phương đông” đã rung lên niềm yêu thương của nhà
thơ lãng mạn với quá khứ xa xăm hoặc những miền xa lạ. Những tập thơ trữ tình
xuất bản sau những năm 30: “Lá mùa thu”, “Tiếng
hát buổi hoàng hôn”, “Tiếng nói bên trong”, “Tia sáng và bóng tối” là “trạng
thái hoàng hôn kì lạ của tâm hồn và của xã hội trong thế kỉ”. Những tập thơ chiến
đấu và hùng ca từ những năm 50: “Trừng phạt”,
“Chiêm ngưỡng”, “Truyền kì các thời đại” đã vươn đến tầm khái quát nhân loại,
phân biệt nước Pháp của nhân dân lao động và nước Pháp của bọn giàu sang quyền
quý.Và trong đó, tình thương yêu của ông được dành cho những con người khốn khổ
bị đọa đày. Trong tiểu thuyết “Nhà thờ đức
bà Pari”, Huygô ca ngợi tình thương yêu của những con người bình thường: cô
vũ nữ Exmêranđa, anh chàng kéo chuông Cazimôđô. Tác phẩm lớn “Những người khồn khổ” miêu tả những cảnh
đau lòng dưới đáy xã hội Pháp, những con người bị vùi dập hiện ra trong tác phẩm
với tất cả vẻ đẹp cao cả. Huygô tin rằng lòng yêu thương tuyệt đối có khả năng
tiêu diệt cái ác và mang lại hạnh phúc cho con người khốn khổ.
Khác với một số nước
ở Tây Âu, văn học lãng mạn Đức mang nhiều yếu tố bảo thủ, tiêu cực. Triết học cổ
điển Đức, đặc biệt là chủ nghĩa duy tâm đã ảnh hưởng sâu sắc đến văn học lãng mạn.
Tác giả nổi tiếng
của trào lưu văn học lãng mạn Đức là Nôvalix thường được đề cao là “hoa hồng
chúa” hoặc “bông huệ thiên thanh”. Sáng tác của Nôvalix tiêu biểu cho khuynh hướng
lãng mạn tiêu cực ở Đức. Có thể kể tới một số tác phẩm của tác giả như: “Bài ca gửi trời đêm”, “Khúc ca tinh thần”,
“Những đồ đệ của Xait”....
Một nhà văn lãng mạn
khác là Ecnet Hôpman. Ông đã viết những chuyện huyễn hoặc như: “Bức tranh đêm”, “Anh em Xêrapiông”...
Ở Anh, từ những
năm thứ mười của thế kỉ XIX đã hình thành dòng văn học lãng mạn tiến bộ với các
nhà văn nổi tiếng: Xcôt, Bairơn, Seli, Kitx...
Bairơn là nhà văn lãng mạn tiêu biểu của nước Anh. Ông chỉ sống có 36 tuổi đời,
sáng tác trong khoảng 20 năm nhưng đã để lại một di sản đồ sộ mà tư tưởng và
nghệ thuật vẫn còn sức cổ vũ cho đến ngày nay. Có thể kể tới một số tập thơ
tiêu biểu của Bairơn như: “Cuộc hành
hương của Saiđơ Harôn”, “Kẻ tà đạo”, “Tên cướp biển”, “Cuộc vây hãm thành
Côrinthơ”, “Lara”....
Seli là nhà văn lãng mạn cách mạng tiếp thu truyển thống cách mạng tư sản
Pháp và tin tưởng là có thể xóa bỏ mọi sự áp bức trong tương lai. Seli viết nhiều
tác phẩm: “Hoàng hậu Mab”, “Cuộc nổi dậy
của Ixlam”, “Prômêtê tháo xiềng”, “Bảo vệ thơ ca”, “Dòng họ Xenxi”....
Ngoài ra trào lưu
văn học lãng mạn còn được nảy sinh và phát triển ở Mĩ với sự xuất hiện của một
số nhà văn tài năng: Ơvinh với các tác phẩm: “Cuộc đời và các chuyến du lịch của
Crixtôphơ Côlông”, “Amhabra”, “...; tác giả Cupơ với 26 tập tiểu thuyết,
hàng chục tập du kí, bài báo, thư từ: “Tên
gián điệp”, “Người hoa tiêu”, “Tên cướp biển đỏ”, “Mụ phù thủy biển khơi”, “Những
con sư tử biển”....
Ở Việt Nam, chủ
nghĩa lãng mạn phương Tây xuất hiện từ một thế kỉ trước đó đã để lại dấu ấn rõ
nét và tạo nên một trào lưu văn học nghệ thuật mới. Mầm mống của trào lưu văn học
lãng mạn manh nha từ trước 1930 trong các tác phẩm của Tương Phố, Đoàn Như Khuê, Hoàng
Ngọc Phách và đặc biệt là Tản Đà. Dưới ảnh hưởng của thơ ca
lãng mạn Pháp, các tác giả đã mạnh mẽ đi vào thế giới tâm hồn, đi vào cái tôi,
cái bản ngã đậm chất riêng tư. Trào lưu văn học này đã tạo được một giai đoạn
thơ ca giàu hương sắc với nhiều phong cách và cá tính sáng tạo. Sự xuất hiện của
cái tôi đồng thời đem đến cuộc đấu tranh đòi tự do cá nhân, giải phóng cá nhân.
Xuận
Diệu thể hiện nỗi kháo khát sống một cách mạnh mẽ: “Chân nổi gió cứ mặt
trời thẳng đến” và mong được nâng tâm hồn mình lên “để hóng gió ngàn phương thổi
đến”. Phạm Huy Thông “muốn có đôi cánh tay vô ngần to rộng/ Để ôm ghì
cả vũ trụ vào lòng tôi”. Lại nữa trong một xã hội thực dân nửa phong kiến, nhà
thơ ra sức đấu tranh cho quyền tự do yêu thương, cho những cảm xúc phong phú,
cho những mơ mộng xa vời, cho những cái đẹp mang màu sắc chủ quan cuả mình. Huy Cận
tìm lại những cái đẹp của dân tộc từ trong quá khứ. Xuân Diệu say sưa trong
tình yêu đắm đuối, Lưu Trọng Lư tìm cái đẹp ở người tráng sĩ, ở con nai vàng ngơ
ngác trong rừng thu, Thế Lữ theo gót hải hồ của người
chinh phu hoặc mơ về tiên giới, Huy Thông đi tìm người anh hùng chiến
bại,
Thâm Tâm yêu người li khách ra đi không trở về...
3. Trào lưu văn học hiện thực
Trào lưu văn học
hiện thực phê phán có ở Anh, Nga và cả ở phương Đông, nhưng hình thành một cách
tiêu biểu, đầu tiên trong văn học Pháp khoảng năm 1930.
Về cơ sở triết học
Trào lưu văn học
hiện thực phê phán hình thành trên cơ sở tư tưởng của Phơbach, Ghecxen,
Secnusepxki, đặc biệt là phép biện chứng của Hêghen. Những thành tựu về triết học
cùng với đặc điểm về tình trạng xã hội đã kết tinh thành nguyên tắc lịch sử cụ
thể cho sự ra đời của trào lưu văn học mới: trào lưu văn học hiện thực phê
phán.
Về phong trào sáng
tác, đội ngũ nhà văn và số lượng tác phẩm.
Trào lưu văn học
hiện thức phê phán Pháp xuất hiện sau những năm 1820, phát triển mạnh mẽ cho đến
những năm 60 và có thể chia ra làm hai thời kì, trước và sao 1848. Giai đoạn
trước 1848 là giai đoạn phát triển rực rỡ của trào lưu hiện thực với nững nhà
văn ưu tú: Xtăngđan, Banzăc, Mêrimê.
Xtăngđan là một nhà văn hiện thức lớn “nhân đạo một cách sâu sắc và có tính triết
học”. Xtăngđan viết một số tiểu thuyết, đặc biệt là ba tác phẩm: “Đỏ và đen”, “Tu viện thành Pacmơ”,
“Luyxiêng Lơoen”.
Banzăc là nhà văn hiện thực lớn nhất nước Pháp nửa đầu thế kỉ XIX. Trong hai
mươi năm ông viết hơn 90 tác phẩm lớn nhỏ mà phần lớn được tập hợp lại trong “Tấn trò đời”. Ngoài ra còn có nhiều vở
kịch và những “Truyện ngắn ngộ nghĩnh”.
Nội dung tiểu thuyết hiện thực của Banzắc bao quát mọi hoạt động của con người
trong nhiều lĩnh vực khác nhau, trong mọi hoạt động của các giai cấp và tầng lớp
xã hội khác nhau. Tác phẩm đã phản ánh những mặt cơ bản của cuộc sống con người:
đời sống vật chất, đời sống kinh tế, đời sống tinh thần. Đặc biệt, Banzăc đã vạch
trần vai trò của đồng tiền trở thành động lực xã hội trong tay của giai cấp tư
sản nắm chính quyền, phản ánh cuộc đấu tranh sống còn giữa giai cấp tư sản đang
lên ở nông thôn và chính trị.
Mêrimê là nhà văn viết truyện ngắn của trào lưu văn học hiện thực phê phán
Pháp. Có thể kể tới những kiệt tác trong hơn 20 năm sáng tác của ông là: “Côlômba”, “Tamangôn”, “ Cacmen”...
Flôbe viết nhiều tác phẩm hiện thực ưu tú:
“Bà Bôvary”, “Xalambô”, “ Sự cám dỗ của thánh Ăngtoan”....
Môpaxăng trong sự nghiệp của mình sáng tác gồm hơn 300 truyện ngắn và 6 tiểu thuyết.
Những truyện ngắn nổi tiếng như: “Nhà
Teliê”, “ Cô Fiji”, “Truyện ngày và đêm”, “ cây hoa hồng và bà Huxông”...Những
tiểu thuyết xuất sắc như: “Một cuộc đời”,
“Anh bạn điển trai”, “ Pie và Jăng”... Môpaxăng là nhà văn hiện thực tiêu
biểu của trào lưu văn học hiện thực phê phán Pháp sau năm 1848.
Trào lưu văn học
hiện thực phê phán ở Đức ra đời muộn hơn trào lưu văn học này ở Pháp và Anh.
Các nhà văn hiện thực tiên tiến Đức ca tụng cuộc cách mạng Pháp và kêu gọi đấu
tranh chống nước Đức phong kiến. Một số nhà văn hiện thực nổi tiếng từ giữa thế
kỉ XIX ở Đức là: Hainơ với các tác phẩm: “Hình
ảnh chuyến đi”, “ Du kí vùng Hacrainơ”...Tác giả Hêben với các tác phẩm kịch
và thơ đề cập đến các vấn đề trung tâm của đất nước: vở kịch “Maria Mađơlen”, “Hecđơun Mariam”...
Văn học hiện thực
phê phán Anh ra đời và phát triển từ những năm 30 của thế kỉ XIX trong thời kì
những cuộc đấu tranh giai cấp ngày càng nâng cao. Văn học hiện thực Anh có những
tác phẩm ưu tú mô tả xung đột cơ bản của thời đại giữa giai cấp tư sản và vô sản.
Nhưng do hạn chế về thế giới quan, các nhà văn hiện thực Anh Đickinx, Brôntê,
Gaxken...đã đứng trên lập trường dân chủ tư sản và quan điểm duy cảm mong muốn
chấn chính xã hôi tư sản và tin tưởng ở sự thực hiện điều thiện trong xã hội.
Đickinx là nhà văn hiện thực lớn đã phản ánh khá toàn diện xã hội nước Anh đương
thời, phê phán giai cấp thống trị và tin tưởng vào sức mạnh của nhân dân.
Saclôt Brônti viết văn từ năm 21 tuổi. Những tác phẩm danh tiếng là: “Người giáo viên”, “Jên Frơ”, “Sơcli”, “Vilit”....Nhìn
chung trào lưu văn học hiện thực Anh đã phản ánh trung thành xã hội Anh nửa đầu
thế kỉ XIX.
Ở Việt Nam, trong
giai đoạn từ 1930 -1945, người ta thấy thực sự xuất hiện nhiều trào lưu, trong
đó có trào lưu văn học hiện thực – một trào lưu đạt được nhiều thành tựu to lớn
về tư tưởng và nghệ thuật. Trào lưu văn học này đã tập hợp được nhiều cây bút đầy
tài năng và đã đóng góp cho lịch sử văn học nước nhà nhiều tác phẩm xuất sắc
không chỉ gây được tiếng vang trong nước mà được dịch và nghiên cứu ở nhiều nước
trên thế giới.
Trong khoảng thời
gian từ 1930 – 1935, những năm mà trào lưu lãng mạn vẫn chiếm ưu thế, đã xuất
hiện một số cây bút hiện thực tài năng, bước đầu thu hút và chiếm được cảm tình
của độc giả. Những tác phẩm của Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Tam Lang
lần lượt ra đời, từng bước khẳng định vị trí của văn học hiện thực phê phán. Nguyễn
Công Hoan là tác giả tiêu biểu cho văn học hiện thực ở giai đoạn 1930 –
1935 với những tác phẩm có giá trị như: “Kép
tư bền”, “Tay trắng trắng tay”, “Lá ngọc cành vàng”, “Ông chủ”, “Bà chủ”....Vũ Trọng Phụng với vở kịch “Không một tiếng vang”, truyện ngắn “Chống nạng
lên đường”, phóng sự “Cạm bẫy người”, “Kĩ nghệ lấy Tây”...Ngòi bút Vũ Trọng
Phụng sớm bộc lộ cảm hứng phê phán mãnh liệt, ông đã thể hiện niềm phẫn uất
mãnh liệt bằng những lười nguyền rủa ném thẳng vào mặt xã hội đồng tiền.
Bước sang giai đoạn
1936 – 1939, trào lưu văn học hiện thực đã vượt lên, phát triển mạnh mẽ. Tài
năng của Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng vươn tới đỉnh cao. Nhiều truyện ngắn
có giá trị của Nguyễn Công Hoan liên tiếp được ra đời: “Hai thằng khốn nạn”, “Đào kép mới”, “Sóng vũ môn”, “Bước đường cùng”...
Chỉ riêng năm 1936, bên cạnh phóng sự “Cơm
thầy cơm cô”, Vũ Trọng Phụng liên tiếp cho ra đời những cuốn tiểu thuyết hiện
thực có giá trị: “Giông tố”, “Vỡ đê”, “Số
đỏ”...Ngô Tất Tố đã thực sự khẳng
định được tài năng của mình với các tác phẩm: “Lều chõng”, “Tập án cái đình” và đặc biệt là tiểu thuyết “Tắt đèn”.
Sang chặng đường
1940 – 1845, đội ngũ nhà văn hiện thực có sự thay đổi lớn, một loạt những cây
bút tài năng xuất hiện bên cạnh những nhà văn trước. Từ năm 1940, ngòi bút Nguyên
Hồng tỏ ra sung sức, liên tiếp cho ra đời những tác phẩm: “Bảy Hựu”, “Qua những màn tối”, “Hơi thở
tàn”, “Hai dòng sữa”, “Ngọn lửa”, “Miếng bánh”...Ngoài ra còn có rất nhiều
những tài năng khác như:Tô Hoài, Bùi Hiển, Mạnh Phú Tư, Nguyễn Đình
Lạp...Đại biểu ưu tú nhất cho trào lưu văn học hiện thực ở chặng cuối
này là Nam Cao. Qua những sáng tác về người nông dân, Nam Cao đã dựng
lên bức tranh chân thực về nông thôn Việt Nam trên con đường bần cùng, phá sản,
không lối thoát, hết sức thê thảm những năm 1940 -1945. Những sáng tác về đề
tài người trí thức của Nam Cao tập trung thể hiện những bi kịch tinh thần của
người trí thức tiểu tư sản đầy hoài bão nhưng lại bị chuyện áo cơm ghì sát đất.
Trong sáng tác của Nam Cao, các truyện ngắn: “Chí Phèo”, “Lão Hạc”, “Dì Hảo”, “Một đám cưới”, “Đời thừa”, “Lang Rận”,
“Trẻ con không được ăn thịt chó”, “Một bữa no”, “Tư cách mõ”, “Giăng sáng”...và
tiểu thuyết “Sống mòn” là những tác
phẩm xuất sắc, trong đó, truyện ngắn “Chí
Phèo” xứng đáng là một kiệt tác đem lại vinh quang cho nền truyện ngắn Việt
Nam.
4. Trào lưu văn học hiện sinh
Về cơ sở triết học
Trào lưu văn học
hiện sinh có sơ sở trực tiếp từ triết học hiện sinh. Triết học hiện sinh xuất
hiện lần đầu tiên ở Đức vào cuối những năm 20 -30 của thế kỉ XX với các đại diện
tiêu biểu như: M. Heidegger, Jaspers; sau đó được J.P.Sartre, A. Camus,
Marcel...đưa vào Pháp. Kế thừa tri thức của nhiều hệ tư tưởng, triết học hiện
sinh ra đời như một kết quả tất yếu sau các cuộc chiến tranh đẫm máu, hướng mọi
suy tư, mọi câu hỏi về thân phận con người. Triết học hiện sinh chủ nghĩa đã ảnh
hưởng trực tiếp và sâu sắc đến văn học và các ngành nghệ thuật khác. Nó đã đi
vào đời sống văn học một cách tự nhiên nhất có thể. Con đường đi vào văn học của
triết học hiện sinh có thể coi là con đường trực tiếp mà các triết thuyết khác
hầu như không có được. Cũng từ đó xuất hiện một trào lưu hiện sinh ở châu Âu.
Về phong trào sáng
tác, đội ngũ nhà văn và số lượng tác phẩm
Trào lưu văn học
hiện sinh xuất hiện trước tiên ở Pháp vào những năm trước và sau chiến tranh thế
giới thứ II với các đại diện là những nhà văn đồng thời là những triết gia hiện
sinh: G. Marcel, J.P.Sartre với một số tác phẩm truyện và kịch như: “Những bàn tay bẩn”, “Bức tường”, “Ruồi”,
“Kín cửa”...trong đó tiêu biểu nhất là tiểu thuyết “Buồn nôn”, A. Camus với
các tác phẩm như: “Người xa lạ”, “Huyền
thoại Xiziphơ”, “Dịch hạch”, “Vây hãm”, “Những bậc chính nhân”...; và tiếp
đó, nhanh chóng lan rộng sang một số nước khác trên thế giới. Bên cạnh văn học
Pháp là văn học Tây Ban Nha (M.de.Unamuno), văn học Anh (Iris Murdoch,
W.Golding), văn học Tây Đức (H.E.Nossaeck, A.Doeblin) và nhiều nền văn học khác
nữa.
Thuyết hiện sinh
đã du nhập vào Việt Nam và ảnh hưởng khá sâu sắc đến lý luận và sáng tác văn học
Việt Nam từ cuối những năm 50 của thế kỉ trước. Trên thực tế, trào lưu hiện
sinh chủ nghĩa đã ảnh hưởng đến nước ta với tư cách là một lý thuyết để người
ta nghiên cứu, quảng bá và đọc sách dịch về văn học hiện sinh (của Albert.
Camus...) là chủ yếu, chứ chưa hướng nhiều tới sáng tác văn học thực thụ theo
khuynh hướng hiện sinh. Do vậy mà câu hỏi ai là tác giả tiêu biểu của văn học
hiện sinh Việt Nam cho đến giờ vẫn chưa có câu trả lời. Ngoài Nguyễn Huy Thiệp,
Phạm Thị Hoài là hai nhà văn có dấu ấn hiện sinh trong tác phẩm, các tác giả
khác hầu như không có. Văn học hiện sinh lại đứt quãng và đến khoảng những năm
80 của thế kỉ XX mới xuất hiện trở lại nước ta, do những thay đổi về xã hội và
nhận thức của con người trước cuộc đời, thời đại mà nhiều vấn đề được đặt ra.
5. Một số trào lưu văn học khác
Bên cạnh các trào
lưu văn học kể trên, thế kỉ XX còn có sự xuất hiện của rất nhiều những trào lưu
văn học khác: trào lưu đa đa, trào lưu siêu thực, trào lưu đường viền...mỗi
trào lưu văn học lại đóng góp thêm một mảng màu mới, làm phong phú hơn bức
tranh văn học thế giới.
Trào lưu đa đa xuất
hiện ở Âu châu vào khoảng những năm 30 của thế kỉ XX. Các tác giả của trào lưu
này hoàn toàn phủ nhận quá khứ, ngờ vực khả năng truyền thông của ngôn ngữ,
khinh bỉ những giá trị thẩm mĩ và chống lại mọi trật tự có sẵn của văn hóa, xã
hội. Với những tư tưởng mĩ học và những thủ pháp nghệ thuật táo bạo, trào lưu
đa đa đã để lại dấu ấn rõ rệt, lâu dài trong lịch sử văn học, nghệ thuật thế giới.
Trào lưu văn học
siêu thực có tiền thân từ trào lưu đa đa. Mặc dù chỉ tồn tại cực thịnh trong thời
gian hơn 20 năm giữa hai cuộc đại chiến thế giới nhưng trào lưu siêu thực đã
làm biến đổi văn học nghệ thuật rất nhiều. Nhiều văn nghệ sĩ tên tuổi ở khắp
nơi đã tích cực thực hành trào lưu siêu thực trong sáng tác. Có thể kể tới tên
tuổi của một số tác giả như: F.G.Looc –
ca ( Tây Ban Nha), A.Nin, H.Mi-lơ (Mĩ), H.S.Day-vit, D.Tho-mat (Anh), P.
Ê-luy-a, L.A-ra-gong (Pháp)...
III. KẾT LUẬN
Qua sự phân tích
trên ta thấy, cùng với những biến đổi về đời sống kinh tế, xã hội; sự phát triển
của các ngành khoa học xã hội, khoa học tự nhiên, đặc biệt là sự phát triển của
mĩ học và triết học đã dẫn tới sự ra đời của nhiều trào lưu văn học. Có thể
nói, cuối thế XIX, đầu thế kỉ XX là “thời kì bùng nổ” của các trào lưu. Mặc dù
vẫn còn tồn tại những hạn chế nhưng mỗi trào lưu văn học với những nguyên tắc
khai thác đời sống khác nhau đã góp thêm những tiếng nói mới cho nền văn học thế
giới: trào lưu văn học cổ điển mang đến cho nhân gian những mẫu con người lí tưởng,
trào lưu lãng mạn chắp cánh cho cái tôi cá nhân bùng lên mạnh mẽ, trào lưu hiện
thực lại giúp con người thấy được những vấn đề nhức nhối của xã hội đương thời
để từ đó có những phương thuốc chữa trị phù hợp....Mỗi trào lưu đều ghi dấu ấn
của riêng mình trong nền văn học thế giới, ở trào lưu nào cũng xuất hiện những
tác giả, tác phẩm tiêu biểu. Chính những con người này, những tác phẩm này đã
làm cho bức tranh văn học của nhân loại chưa bao giờ lại nhiều màu sắc tươi
sáng đến vậy.