Thứ Ba, 11 tháng 10, 2016

CÁC TRÀO LƯU CƠ BẢN TRONG LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN VĂN HỌC

CÁC TRÀO LƯU CƠ BẢN TRONG LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN VĂN HỌC

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trào lưu văn học là một hiện tượng có tính chất lịch sử. Đó là một phong trào sáng tác tập hợp những tác giả, tác phẩm gần gũi với nhau về cảm hứng, tư tưởng, nguyên tắc miêu tả hiện thực, tạo thành một “dòng sông lớn” có bề thế trong đời sống văn học của một dân tộc hoặc một thời đại.
Kể từ những năm 30 của thế kỉ XIX, trong sự đảo lộn sâu sắc của xã hội và sự yếu thế của đức tin tôn giáo, chủ nghĩa tư bản bắt đầu phát triển và lên ngôi thống trị ở Âu châu. Sự phát triển của xã hội là tiền đề cho sự phát triển về triết học, các khoa học xã hội và khoa học tự nhiên. Chính những bước tiến đó cho người ta nhận thức đúng đắn hơn về con người – nhân vật trung tâm của nghệ thuật, hiểu rõ hơn mối quan hệ giữa con người và tự nhiên, con người và xã hội. Trong bối cảnh đó đã xuất hiện nhiều khuynh hướng, trào lưu văn học nghệ thuật: trào lưu cổ điển, trào lưu lãng mạn, trào lưu hiện thực, trào lưu hiện sinh.... Mỗi trào lưu văn học được nảy sinh trên một hoàn cảnh lịch sử và có cơ sở triết học nhất định. Ở trào lưu văn học nào cũng đóng góp cho nền văn học nhân loại những tên tuổi tác giả ưu tú cùng những tác phẩm tiêu biểu.
II. NỘI DUNG
1. Trào lưu văn học cổ điển
Trào lưu văn học cổ điển là một hiện tượng văn học lịch sử - cụ thể, hình thành trên một cở sở xã hội và ý thức hệ nhất định, tiêu biểu nhất là của thế kỉ XIX ở Pháp.
Về cơ sở triết học
Cơ sở ý thức triết học của chủ nghĩa cổ điển là chủ nghĩa duy lí của Đêcac. Trong tiểu luận triết học nổi tiếng nhan đề “Luận về phương pháp” ông đã đề xướng triết học duy lí – đánh giá cao khả năng vai trò của tư duy lí luận. Theo ông, lí trí không những là giai đoạn cao của nhận thức thế giới, mà còn là nguồn gốc độc lập, không phụ thuộc vào tri giác cảm tính, lí trí có thể đem lại sự hiểu biết về tất cả những gì mà giác quan của con người không đạt tới. Nói về vấn đề cơ bản của triết học là mối quan hệ tư duy và tồn tại, Đêcac nêu một nguyên lý: “Tôi tư duy tức là tôi tồn tại”.
Triết học duy lí của Đêcac đã in dấu đậm nét trong văn học cổ điển chủ nghĩa Pháp, từ lí luận đến sáng tác, từ sự lựa chọn đề tài đến những thành tựu nghệ thuật.
Về phong trào sáng tác, đội ngũ nhà văn và số lượng tác phẩm
Phản ánh những nhu cầu, tính chất của nhà nước phong kiến tập trung thế kỉ XIX và chủ nghĩa duy lí của Đêcac, chủ nghĩa cổ điển xem nhân vật trung tâm có tính chất lí tưởng là những con người đặt lí trí lên trên tình cảm, chiến thắng đam mê, coi nhẹ lợi ích cá nhân, phục tùng cho lợi ích và danh dự của quốc gia, dòng dõi. Trào lưu văn học cổ điển phát triển mạnh mẽ nhất ở Pháp với sự xuất hiện của nhiều tên tuổi nhà văn lớn. Trong đó có thể kể tới các tác giả: Malecbơ, Paxcan, La Phôngten, Cornây, Raxin, Môlie...
Cornây là nhà soạn kịch nổi tiếng của Pháp. Bi kịch Cornây giáo dục lòng yêu nước, đề cao danh dự của người công dân. Những nhân vật trong kịch của ông đều là người anh hùng chiến thắng mọi trở ngại, cám dỗ, luôn sáng suốt làm chủ lấy mình.“Lơxit” là vở kịch nổi tiếng nhất của Cornây.
Jăng Raxin là nhà thơ cổ điển chủ nghĩa mẫu mực. Raxin sáng tác không nhiều. Có thể kể tới một số tác phẩm tiêu biểu như: “Ăngdromac”, “Bêrênix”, “Atali”...
Môlie là một trong những nhà soạn kịch lỗi lạc nhất của chủ nghĩa cổ điển Pháp và của cả nền văn học Pháp. Tiếng cười trong hài kịch của Môlie đã tố cáo những tiêu cực, những điều lố lăng, cái xấu, cái rởm đời...của đủ mọi tầng lớp, không kiêng nể ai. Chế độ quân chủ chuyên chế, tầng lớp quý tộc lỗi thời, tôn giáo đè nén hạnh phúc của con người, tư sản ham mê danh vọng...là những mục tiêu đả kích của ông. Bên cạnh đó, ông luôn luôn ca ngợi người bình dân, người lao động với lương tri trong sáng, lành mạnh. Có thể kể tới một số tác phẩm tiểu biểu của ông như: “Đông Juăng”, “Anh ghét đời”, “Tactuyp”, “Lão hà tiện”... Với tiếng cười mang tính chất duy lí, tiếng cười Môlie chính là vũ khí của kẻ mạnh, của những thế lực tiến bộ đang chôn vùi những tàn dư lạc hậu của chế độ cũ.
2. Trào lưu văn học lãng mạn
Trào lưu văn học lãng mạn hình thành một cách tiêu biểu ở Tây Âu vào sau Đại cách mạng tư sản Pháp năm 1789.
Về cơ sở triết học:
Trào lưu văn học lãng mạn chịu ảnh hưởng khá sâu của học thuyết “Chủ nghĩa xã hội không tưởng” của Ôwen và Phuriê. Đặc biệt, trào lưu lãng mạn còn có quan hệ mật thiết với triết học duy tâm cổ điển Đức. Những quan điểm triết học, mĩ học của các nhà duy tâm cổ điển Đức: Căng, Hêghen, Gớt...đều đề cao con người, thể hiện sự phát triển mạnh mẽ của chủ nghĩa cá nhân trong xã hội tư sản cận đại. Mặt tích cực của nó là nâng cao sự tôn nghiêm, khẳng định ý thức tự chủ ở con người. Tuy nhiên, triết học và mĩ học duy tâm cổ điển Đức lại đề cao con người tách khỏi thực tế xã hội và lịch sử. Từ trong mối quan hệ phức tạp đó, các nhà lãng mạn tích cực và tiêu cực sẽ khai thác theo những khía cạnh nào thích hợp với quan niệm của mình.
Về phong trào sáng tác, đội ngũ nhà văn và tác phẩm tiêu biểu
Thật khó để thâu tóm tất cả tính chất bao trùm trong các tác phẩm của những nhà lãng mạn. Tuy nhiên, có thể đúc kết một vài nét đặc thù làm nên những thuộc tính, những chủ đề của lãng mạn: sự đề cao cái tôi cá nhân, hay nói về nỗi buồn lãng mạn, viết nhiều về thiên nhiên....
Từ những năm 20, trào lưu văn học lãng mạn ở Pháp đã phát triển mạnh mẽ với các nhà văn nổi tiếng: Lamactin, Vinhi, Huygô, Xăng, Muyxê.
Lamactin là nhà thơ tiêu biểu của trào lưu văn học lãng mạn Pháp. Lamactin viết những tập thơ trữ tình nổi tiếng: “Trầm tư”, “Trầm tư mới”, “Những hài hòa”... Có thể nói Lamacstin là người khai phá một giọng ca mới, là nhà thơ trữ tình xuất sắc khi nói về thiên nhiên gắn với tâm tình con người.
Vinhi bắt đầu sáng tác năm 1820 và dần dần nổi tiếng với các tác phẩm: “Moizơ”, “Xanh Mac”, “Stenlê”...
Victo Huygô là nhà văn lãng mạn ưu tú của nước Pháp. Trong hơn 60 năm sáng tác, ông đã để lại hơn 20 vở kịch, 10 tiểu thuyết lớn và truyên vừa, 15 tập thơ gồm 153873 câu thơ, hàng trăm bài chính luận, lí luận văn chương, hàng nghìn bức thư tình là những áng văn chương hay...Những tập thơ đầu “Đoản thi”, “Về phương đông” đã rung lên niềm yêu thương của nhà thơ lãng mạn với quá khứ xa xăm hoặc những miền xa lạ. Những tập thơ trữ tình xuất bản sau những năm 30: “Lá mùa thu”, “Tiếng hát buổi hoàng hôn”, “Tiếng nói bên trong”, “Tia sáng và bóng tối” là “trạng thái hoàng hôn kì lạ của tâm hồn và của xã hội trong thế kỉ”. Những tập thơ chiến đấu và hùng ca từ những năm 50: “Trừng phạt”, “Chiêm ngưỡng”, “Truyền kì các thời đại” đã vươn đến tầm khái quát nhân loại, phân biệt nước Pháp của nhân dân lao động và nước Pháp của bọn giàu sang quyền quý.Và trong đó, tình thương yêu của ông được dành cho những con người khốn khổ bị đọa đày. Trong tiểu thuyết “Nhà thờ đức bà Pari”, Huygô ca ngợi tình thương yêu của những con người bình thường: cô vũ nữ Exmêranđa, anh chàng kéo chuông Cazimôđô. Tác phẩm lớn “Những người khồn khổ” miêu tả những cảnh đau lòng dưới đáy xã hội Pháp, những con người bị vùi dập hiện ra trong tác phẩm với tất cả vẻ đẹp cao cả. Huygô tin rằng lòng yêu thương tuyệt đối có khả năng tiêu diệt cái ác và mang lại hạnh phúc cho con người khốn khổ.
Khác với một số nước ở Tây Âu, văn học lãng mạn Đức mang nhiều yếu tố bảo thủ, tiêu cực. Triết học cổ điển Đức, đặc biệt là chủ nghĩa duy tâm đã ảnh hưởng sâu sắc đến văn học lãng mạn.
Tác giả nổi tiếng của trào lưu văn học lãng mạn Đức là Nôvalix thường được đề cao là “hoa hồng chúa” hoặc “bông huệ thiên thanh”. Sáng tác của Nôvalix tiêu biểu cho khuynh hướng lãng mạn tiêu cực ở Đức. Có thể kể tới một số tác phẩm của tác giả như: “Bài ca gửi trời đêm”, “Khúc ca tinh thần”, “Những đồ đệ của Xait”....
Một nhà văn lãng mạn khác là Ecnet Hôpman. Ông đã viết những chuyện huyễn hoặc như: “Bức tranh đêm”, “Anh em Xêrapiông”...
Ở Anh, từ những năm thứ mười của thế kỉ XIX đã hình thành dòng văn học lãng mạn tiến bộ với các nhà văn nổi tiếng: Xcôt, Bairơn, Seli, Kitx...
Bairơn là nhà văn lãng mạn tiêu biểu của nước Anh. Ông chỉ sống có 36 tuổi đời, sáng tác trong khoảng 20 năm nhưng đã để lại một di sản đồ sộ mà tư tưởng và nghệ thuật vẫn còn sức cổ vũ cho đến ngày nay. Có thể kể tới một số tập thơ tiêu biểu của Bairơn như: “Cuộc hành hương của Saiđơ Harôn”, “Kẻ tà đạo”, “Tên cướp biển”, “Cuộc vây hãm thành Côrinthơ”, “Lara”....
Seli là nhà văn lãng mạn cách mạng tiếp thu truyển thống cách mạng tư sản Pháp và tin tưởng là có thể xóa bỏ mọi sự áp bức trong tương lai. Seli viết nhiều tác phẩm: “Hoàng hậu Mab”, “Cuộc nổi dậy của Ixlam”, “Prômêtê tháo xiềng”, “Bảo vệ thơ ca”, “Dòng họ Xenxi”....
Ngoài ra trào lưu văn học lãng mạn còn được nảy sinh và phát triển ở Mĩ với sự xuất hiện của một số nhà văn tài năng: Ơvinh với các tác phẩm: “Cuộc đời và các chuyến du lịch của Crixtôphơ Côlông”, “Amhabra”, “...; tác giả Cupơ với 26 tập tiểu thuyết, hàng chục tập du kí, bài báo, thư từ: “Tên gián điệp”, “Người hoa tiêu”, “Tên cướp biển đỏ”, “Mụ phù thủy biển khơi”, “Những con sư tử biển”....
Ở Việt Nam, chủ nghĩa lãng mạn phương Tây xuất hiện từ một thế kỉ trước đó đã để lại dấu ấn rõ nét và tạo nên một trào lưu văn học nghệ thuật mới. Mầm mống của trào lưu văn học lãng mạn manh nha từ trước 1930 trong các tác phẩm của Tương Phố, Đoàn Như Khuê, Hoàng Ngọc Phách và đặc biệt là Tản Đà. Dưới ảnh hưởng của thơ ca lãng mạn Pháp, các tác giả đã mạnh mẽ đi vào thế giới tâm hồn, đi vào cái tôi, cái bản ngã đậm chất riêng tư. Trào lưu văn học này đã tạo được một giai đoạn thơ ca giàu hương sắc với nhiều phong cách và cá tính sáng tạo. Sự xuất hiện của cái tôi đồng thời đem đến cuộc đấu tranh đòi tự do cá nhân, giải phóng cá nhân. Xuận Diệu thể hiện nỗi kháo khát sống một cách mạnh mẽ: “Chân nổi gió cứ mặt trời thẳng đến” và mong được nâng tâm hồn mình lên “để hóng gió ngàn phương thổi đến”. Phạm Huy Thông “muốn có đôi cánh tay vô ngần to rộng/ Để ôm ghì cả vũ trụ vào lòng tôi”. Lại nữa trong một xã hội thực dân nửa phong kiến, nhà thơ ra sức đấu tranh cho quyền tự do yêu thương, cho những cảm xúc phong phú, cho những mơ mộng xa vời, cho những cái đẹp mang màu sắc chủ quan cuả mình. Huy Cận tìm lại những cái đẹp của dân tộc từ trong quá khứ. Xuân Diệu say sưa trong tình yêu đắm đuối, Lưu Trọng Lư tìm cái đẹp ở người tráng sĩ, ở con nai vàng ngơ ngác trong rừng thu, Thế Lữ theo gót hải hồ của người chinh phu hoặc mơ về tiên giới, Huy Thông đi tìm người anh hùng chiến bại, Thâm Tâm yêu người li khách ra đi không trở về...
3. Trào lưu văn học hiện thực
Trào lưu văn học hiện thực phê phán có ở Anh, Nga và cả ở phương Đông, nhưng hình thành một cách tiêu biểu, đầu tiên trong văn học Pháp khoảng năm 1930.
Về cơ sở triết học
Trào lưu văn học hiện thực phê phán hình thành trên cơ sở tư tưởng của Phơbach, Ghecxen, Secnusepxki, đặc biệt là phép biện chứng của Hêghen. Những thành tựu về triết học cùng với đặc điểm về tình trạng xã hội đã kết tinh thành nguyên tắc lịch sử cụ thể cho sự ra đời của trào lưu văn học mới: trào lưu văn học hiện thực phê phán.
Về phong trào sáng tác, đội ngũ nhà văn và số lượng tác phẩm.
Trào lưu văn học hiện thức phê phán Pháp xuất hiện sau những năm 1820, phát triển mạnh mẽ cho đến những năm 60 và có thể chia ra làm hai thời kì, trước và sao 1848. Giai đoạn trước 1848 là giai đoạn phát triển rực rỡ của trào lưu hiện thực với nững nhà văn ưu tú: Xtăngđan, Banzăc, Mêrimê.
Xtăngđan là một nhà văn hiện thức lớn “nhân đạo một cách sâu sắc và có tính triết học”. Xtăngđan viết một số tiểu thuyết, đặc biệt là ba tác phẩm: “Đỏ và đen”, “Tu viện thành Pacmơ”, “Luyxiêng Lơoen”.
Banzăc là nhà văn hiện thực lớn nhất nước Pháp nửa đầu thế kỉ XIX. Trong hai mươi năm ông viết hơn 90 tác phẩm lớn nhỏ mà phần lớn được tập hợp lại trong “Tấn trò đời”. Ngoài ra còn có nhiều vở kịch và những “Truyện ngắn ngộ nghĩnh”. Nội dung tiểu thuyết hiện thực của Banzắc bao quát mọi hoạt động của con người trong nhiều lĩnh vực khác nhau, trong mọi hoạt động của các giai cấp và tầng lớp xã hội khác nhau. Tác phẩm đã phản ánh những mặt cơ bản của cuộc sống con người: đời sống vật chất, đời sống kinh tế, đời sống tinh thần. Đặc biệt, Banzăc đã vạch trần vai trò của đồng tiền trở thành động lực xã hội trong tay của giai cấp tư sản nắm chính quyền, phản ánh cuộc đấu tranh sống còn giữa giai cấp tư sản đang lên ở nông thôn và chính trị.
Mêrimê là nhà văn viết truyện ngắn của trào lưu văn học hiện thực phê phán Pháp. Có thể kể tới những kiệt tác trong hơn 20 năm sáng tác của ông là: “Côlômba”, “Tamangôn”, “ Cacmen”...
Flôbe viết nhiều tác phẩm hiện thực ưu tú: “Bà Bôvary”, “Xalambô”, “ Sự cám dỗ của thánh Ăngtoan”....
Môpaxăng trong sự nghiệp của mình sáng tác gồm hơn 300 truyện ngắn và 6 tiểu thuyết. Những truyện ngắn nổi tiếng như: “Nhà Teliê”, “ Cô Fiji”, “Truyện ngày và đêm”, “ cây hoa hồng và bà Huxông”...Những tiểu thuyết xuất sắc như: “Một cuộc đời”, “Anh bạn điển trai”, “ Pie và Jăng”... Môpaxăng là nhà văn hiện thực tiêu biểu của trào lưu văn học hiện thực phê phán Pháp sau năm 1848.
Trào lưu văn học hiện thực phê phán ở Đức ra đời muộn hơn trào lưu văn học này ở Pháp và Anh. Các nhà văn hiện thực tiên tiến Đức ca tụng cuộc cách mạng Pháp và kêu gọi đấu tranh chống nước Đức phong kiến. Một số nhà văn hiện thực nổi tiếng từ giữa thế kỉ XIX ở Đức là: Hainơ với các tác phẩm: “Hình ảnh chuyến đi”, “ Du kí vùng Hacrainơ”...Tác giả Hêben với các tác phẩm kịch và thơ đề cập đến các vấn đề trung tâm của đất nước: vở kịch “Maria Mađơlen”, “Hecđơun Mariam”...
Văn học hiện thực phê phán Anh ra đời và phát triển từ những năm 30 của thế kỉ XIX trong thời kì những cuộc đấu tranh giai cấp ngày càng nâng cao. Văn học hiện thực Anh có những tác phẩm ưu tú mô tả xung đột cơ bản của thời đại giữa giai cấp tư sản và vô sản. Nhưng do hạn chế về thế giới quan, các nhà văn hiện thực Anh Đickinx, Brôntê, Gaxken...đã đứng trên lập trường dân chủ tư sản và quan điểm duy cảm mong muốn chấn chính xã hôi tư sản và tin tưởng ở sự thực hiện điều thiện trong xã hội.
Đickinx là nhà văn hiện thực lớn đã phản ánh khá toàn diện xã hội nước Anh đương thời, phê phán giai cấp thống trị và tin tưởng vào sức mạnh của nhân dân.
Saclôt Brônti viết văn từ năm 21 tuổi. Những tác phẩm danh tiếng là: “Người giáo viên”, “Jên Frơ”, “Sơcli”, “Vilit”....Nhìn chung trào lưu văn học hiện thực Anh đã phản ánh trung thành xã hội Anh nửa đầu thế kỉ XIX.
Ở Việt Nam, trong giai đoạn từ 1930 -1945, người ta thấy thực sự xuất hiện nhiều trào lưu, trong đó có trào lưu văn học hiện thực – một trào lưu đạt được nhiều thành tựu to lớn về tư tưởng và nghệ thuật. Trào lưu văn học này đã tập hợp được nhiều cây bút đầy tài năng và đã đóng góp cho lịch sử văn học nước nhà nhiều tác phẩm xuất sắc không chỉ gây được tiếng vang trong nước mà được dịch và nghiên cứu ở nhiều nước trên thế giới.
Trong khoảng thời gian từ 1930 – 1935, những năm mà trào lưu lãng mạn vẫn chiếm ưu thế, đã xuất hiện một số cây bút hiện thực tài năng, bước đầu thu hút và chiếm được cảm tình của độc giả. Những tác phẩm của Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Tam Lang lần lượt ra đời, từng bước khẳng định vị trí của văn học hiện thực phê phán. Nguyễn Công Hoan là tác giả tiêu biểu cho văn học hiện thực ở giai đoạn 1930 – 1935 với những tác phẩm có giá trị như: “Kép tư bền”, “Tay trắng trắng tay”, “Lá ngọc cành vàng”, “Ông chủ”, “Bà chủ”....Vũ Trọng Phụng với vở kịch “Không một tiếng vang”, truyện ngắn “Chống nạng lên đường”, phóng sự “Cạm bẫy người”, “Kĩ nghệ lấy Tây”...Ngòi bút Vũ Trọng Phụng sớm bộc lộ cảm hứng phê phán mãnh liệt, ông đã thể hiện niềm phẫn uất mãnh liệt bằng những lười nguyền rủa ném thẳng vào mặt xã hội đồng tiền.
Bước sang giai đoạn 1936 – 1939, trào lưu văn học hiện thực đã vượt lên, phát triển mạnh mẽ. Tài năng của Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng vươn tới đỉnh cao. Nhiều truyện ngắn có giá trị của Nguyễn Công Hoan liên tiếp được ra đời: “Hai thằng khốn nạn”, “Đào kép mới”, “Sóng vũ môn”, “Bước đường cùng”... Chỉ riêng năm 1936, bên cạnh phóng sự “Cơm thầy cơm cô”, Vũ Trọng Phụng liên tiếp cho ra đời những cuốn tiểu thuyết hiện thực có giá trị: “Giông tố”, “Vỡ đê”, “Số đỏ”...Ngô Tất Tố đã thực sự khẳng định được tài năng của mình với các tác phẩm: “Lều chõng”, “Tập án cái đình” và đặc biệt là tiểu thuyết “Tắt đèn”.
Sang chặng đường 1940 – 1845, đội ngũ nhà văn hiện thực có sự thay đổi lớn, một loạt những cây bút tài năng xuất hiện bên cạnh những nhà văn trước. Từ năm 1940, ngòi bút Nguyên Hồng tỏ ra sung sức, liên tiếp cho ra đời những tác phẩm: “Bảy Hựu”, “Qua những màn tối”, “Hơi thở tàn”, “Hai dòng sữa”, “Ngọn lửa”, “Miếng bánh”...Ngoài ra còn có rất nhiều những tài năng khác như:Tô Hoài, Bùi Hiển, Mạnh Phú Tư, Nguyễn Đình Lạp...Đại biểu ưu tú nhất cho trào lưu văn học hiện thực ở chặng cuối này là Nam Cao. Qua những sáng tác về người nông dân, Nam Cao đã dựng lên bức tranh chân thực về nông thôn Việt Nam trên con đường bần cùng, phá sản, không lối thoát, hết sức thê thảm những năm 1940 -1945. Những sáng tác về đề tài người trí thức của Nam Cao tập trung thể hiện những bi kịch tinh thần của người trí thức tiểu tư sản đầy hoài bão nhưng lại bị chuyện áo cơm ghì sát đất. Trong sáng tác của Nam Cao, các truyện ngắn: “Chí Phèo”, “Lão Hạc”, “Dì Hảo”, “Một đám cưới”, “Đời thừa”, “Lang Rận”, “Trẻ con không được ăn thịt chó”, “Một bữa no”, “Tư cách mõ”, “Giăng sáng”...và tiểu thuyết “Sống mòn” là những tác phẩm xuất sắc, trong đó, truyện ngắn “Chí Phèo” xứng đáng là một kiệt tác đem lại vinh quang cho nền truyện ngắn Việt Nam.
4. Trào lưu văn học hiện sinh
Về cơ sở triết học
Trào lưu văn học hiện sinh có sơ sở trực tiếp từ triết học hiện sinh. Triết học hiện sinh xuất hiện lần đầu tiên ở Đức vào cuối những năm 20 -30 của thế kỉ XX với các đại diện tiêu biểu như: M. Heidegger, Jaspers; sau đó được J.P.Sartre, A. Camus, Marcel...đưa vào Pháp. Kế thừa tri thức của nhiều hệ tư tưởng, triết học hiện sinh ra đời như một kết quả tất yếu sau các cuộc chiến tranh đẫm máu, hướng mọi suy tư, mọi câu hỏi về thân phận con người. Triết học hiện sinh chủ nghĩa đã ảnh hưởng trực tiếp và sâu sắc đến văn học và các ngành nghệ thuật khác. Nó đã đi vào đời sống văn học một cách tự nhiên nhất có thể. Con đường đi vào văn học của triết học hiện sinh có thể coi là con đường trực tiếp mà các triết thuyết khác hầu như không có được. Cũng từ đó xuất hiện một trào lưu hiện sinh ở châu Âu.
Về phong trào sáng tác, đội ngũ nhà văn và số lượng tác phẩm
Trào lưu văn học hiện sinh xuất hiện trước tiên ở Pháp vào những năm trước và sau chiến tranh thế giới thứ II với các đại diện là những nhà văn đồng thời là những triết gia hiện sinh: G. Marcel, J.P.Sartre với một số tác phẩm truyện và kịch như: “Những bàn tay bẩn”, “Bức tường”, “Ruồi”, “Kín cửa”...trong đó tiêu biểu nhất là tiểu thuyết “Buồn nôn”, A. Camus với các tác phẩm như: “Người xa lạ”, “Huyền thoại Xiziphơ”, “Dịch hạch”, “Vây hãm”, “Những bậc chính nhân”...; và tiếp đó, nhanh chóng lan rộng sang một số nước khác trên thế giới. Bên cạnh văn học Pháp là văn học Tây Ban Nha (M.de.Unamuno), văn học Anh (Iris Murdoch, W.Golding), văn học Tây Đức (H.E.Nossaeck, A.Doeblin) và nhiều nền văn học khác nữa.
Thuyết hiện sinh đã du nhập vào Việt Nam và ảnh hưởng khá sâu sắc đến lý luận và sáng tác văn học Việt Nam từ cuối những năm 50 của thế kỉ trước. Trên thực tế, trào lưu hiện sinh chủ nghĩa đã ảnh hưởng đến nước ta với tư cách là một lý thuyết để người ta nghiên cứu, quảng bá và đọc sách dịch về văn học hiện sinh (của Albert. Camus...) là chủ yếu, chứ chưa hướng nhiều tới sáng tác văn học thực thụ theo khuynh hướng hiện sinh. Do vậy mà câu hỏi ai là tác giả tiêu biểu của văn học hiện sinh Việt Nam cho đến giờ vẫn chưa có câu trả lời. Ngoài Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài là hai nhà văn có dấu ấn hiện sinh trong tác phẩm, các tác giả khác hầu như không có. Văn học hiện sinh lại đứt quãng và đến khoảng những năm 80 của thế kỉ XX mới xuất hiện trở lại nước ta, do những thay đổi về xã hội và nhận thức của con người trước cuộc đời, thời đại mà nhiều vấn đề được đặt ra.
5. Một số trào lưu văn học khác
Bên cạnh các trào lưu văn học kể trên, thế kỉ XX còn có sự xuất hiện của rất nhiều những trào lưu văn học khác: trào lưu đa đa, trào lưu siêu thực, trào lưu đường viền...mỗi trào lưu văn học lại đóng góp thêm một mảng màu mới, làm phong phú hơn bức tranh văn học thế giới.
Trào lưu đa đa xuất hiện ở Âu châu vào khoảng những năm 30 của thế kỉ XX. Các tác giả của trào lưu này hoàn toàn phủ nhận quá khứ, ngờ vực khả năng truyền thông của ngôn ngữ, khinh bỉ những giá trị thẩm mĩ và chống lại mọi trật tự có sẵn của văn hóa, xã hội. Với những tư tưởng mĩ học và những thủ pháp nghệ thuật táo bạo, trào lưu đa đa đã để lại dấu ấn rõ rệt, lâu dài trong lịch sử văn học, nghệ thuật thế giới.
Trào lưu văn học siêu thực có tiền thân từ trào lưu đa đa. Mặc dù chỉ tồn tại cực thịnh trong thời gian hơn 20 năm giữa hai cuộc đại chiến thế giới nhưng trào lưu siêu thực đã làm biến đổi văn học nghệ thuật rất nhiều. Nhiều văn nghệ sĩ tên tuổi ở khắp nơi đã tích cực thực hành trào lưu siêu thực trong sáng tác. Có thể kể tới tên tuổi của một số tác giả như: F.G.Looc – ca ( Tây Ban Nha), A.Nin, H.Mi-lơ (Mĩ), H.S.Day-vit, D.Tho-mat (Anh), P. Ê-luy-a, L.A-ra-gong (Pháp)...
III. KẾT LUẬN

Qua sự phân tích trên ta thấy, cùng với những biến đổi về đời sống kinh tế, xã hội; sự phát triển của các ngành khoa học xã hội, khoa học tự nhiên, đặc biệt là sự phát triển của mĩ học và triết học đã dẫn tới sự ra đời của nhiều trào lưu văn học. Có thể nói, cuối thế XIX, đầu thế kỉ XX là “thời kì bùng nổ” của các trào lưu. Mặc dù vẫn còn tồn tại những hạn chế nhưng mỗi trào lưu văn học với những nguyên tắc khai thác đời sống khác nhau đã góp thêm những tiếng nói mới cho nền văn học thế giới: trào lưu văn học cổ điển mang đến cho nhân gian những mẫu con người lí tưởng, trào lưu lãng mạn chắp cánh cho cái tôi cá nhân bùng lên mạnh mẽ, trào lưu hiện thực lại giúp con người thấy được những vấn đề nhức nhối của xã hội đương thời để từ đó có những phương thuốc chữa trị phù hợp....Mỗi trào lưu đều ghi dấu ấn của riêng mình trong nền văn học thế giới, ở trào lưu nào cũng xuất hiện những tác giả, tác phẩm tiêu biểu. Chính những con người này, những tác phẩm này đã làm cho bức tranh văn học của nhân loại chưa bao giờ lại nhiều màu sắc tươi sáng đến vậy.

Sự giao thoa, sự kết hợp của khuynh hướng lãng mạn và hiện thực trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam.

Đề bài: Vấn đề phân loại văn học Việt Nam từ 1900 – 1945 và sự giao thoa của các khuynh hướng văn học.
Vận dụng vào việc phân tích sự giao thoa, sự kết hợp của khuynh hướng lãng mạn và hiện thực trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam.
BÀI LÀM
Văn học Việt Nam từ 1900 – 1945 tuy chỉ diễn ra không đầy nửa thế kỉ nhưng có vị trí rất quan trọng trong tiến trình phát triển của lịch sử văn học Việt Nam. Đã có nhiều nhà nghiên cứu hướng sự quan tâm của mình tới giai đoạn văn học này. Tuy nhiên, có rất nhiều vấn đề vẫn chưa thể đi đến thống nhất. Một trong những vấn đề vẫn còn gây nhiều tranh cãi đó sự phân loại văn học.
Phân loại là phân chia đối tượng thành nhiều mảng để tìm hiểu. Khi tiến hành phân loại văn học Việt Nam giai đoạn 1900–1945, các nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều ý kiến khác nhau. Sự khác nhau này bắt nguồn từ sự khác nhau về tiêu chí phân loại:
* Từ 1955 – 1980: các nhà nghiên cứu đã đưa ra thuật ngữ “dòng văn học”. Theo đó văn học Việt Nam thời kì 1900–1945 có sự song hành chuyển hóa của ba dòng văn học: dòng văn học hiện thực, dòng văn học lãng mạn và dòng văn học cách mạng. Thuật ngữ này có ưu điểm là từ nôm, dễ hình dung nhưng “dòng” lại là một khái niệm mơ hồ. “Dòng” là khái niệm chỉ đội ngũ, khuynh hướng hay trào lưu... là không rõ.
* Từ những năm 1980 trở đi các nhà nghiên cứu sử dụng khái niệm “khuynh hướng”. Tuy nhiên, nó vẫn không đủ để nhận diện toàn bộ văn học mà phải phối hợp thêm với một tiêu chí nữa, đó là tiêu chí “bộ phận”. Các nhà nghiên cứu đã dựa vào hai tiêu chí bộ phận: dựa vào sự lưu hành và dựa vào tính hợp pháp để phân loại văn học thời kì này. Theo đó, toàn bộ văn học 1900 – 1945 sẽ được phân chia thành văn học hợp pháp (công khai) và văn học bất hợp pháp (bí mật). Thuộc về văn học công khai là văn học lãng mạn và hiện thực, thuộc về văn học bí mật là văn học cách mạng.
* Cách phân loại của đại học sư phạm: xem xét văn học như một hoạt động của mĩ học, xem văn học như là ứng xử thẩm mĩ của con người trước thực tại. Các khuynh hướng văn học xét đến cùng là khuynh hướng của những ứng xử thẩm mĩ với thực tại. Theo đó, ba khuynh hướng trong văn học Việt Nam 1900 – 1945 bao gồm: khuynh hướng lãng mạn, khuynh hướng hiện thực và khuynh hướng cách mạng. Những khuynh hướng ấy không tách rời nhau mà luôn song hành, chuyển hóa lẫn nhau để tạo nên một bức tranh văn học sống động.
Để làm rõ hơn vấn đề này, người viết sẽ đi sâu phân tích sự giao thoa, kết hợp của khuynh hướng lãng mạn và khuynh hướng hiện thực trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của nhà văn Thạch Lam.
Giữa văn học hiện thực và văn học lãng mạn có những đặc trưng riêng giúp ta có thể phân biệt tác phẩm thuộc khuynh hướng văn học này hay khuynh hướng văn học kia.
Về tư duy nghệ thuật, văn học lãng mạn như chiếc xe trở đầy cảm xúc. Trước hiện thực, nhà văn lãng mạn không phân tích hiện thực mà chủ yếu là bộc lộ cái tôi, cái thế giới chủ quan. Trong khi đó, thao tác phân tích thực tại lại là thao tác cơ bản của tư duy hiện thực. Để có cái nhìn khách quan, để tỉnh táo quan sát và nắm bắt bản chất hiện thực, nhà văn hiện thực phải hạn chế tình cảm, cảm xúc đến mức tối đa.
Văn học lãng mạn có ba đề tài cơ bản là thiên nhiên, tình yêu, tôn giáo. Văn học hiện thực lại quan tâm đến xã hội, môi trường xã hội, đặc biệt là không gian sinh tồn của con người. Vì thế, nó quan tâm đến khắc họa tính cách xã hội, hiện trạng xã hội...
Về thể loại, do gốc của văn học lãng mạn là cảm xúc cá nhân, là cái tôi nội cảm nên nó hay tìm đến các thể loại trữ tình như thơ, tùy bút, tự truyện, truyện ngắn trữ tình. Còn gốc của văn học hiện thực là xã hội, coi trọng khách quan nên thể loại phổ biến của nó là phóng sự, truyện ngắn trào phúng, tiểu thuyết...
Có thể nói, trên đây là những phương diện cơ bản để soi chiếu, để phân định khuynh hướng văn học hiện thực và lãng mạn. Song trong thực tế sáng tác, hai khuynh hướng này không phân định một cách rạch ròi mà đôi khi có sự chuyển hóa và các nhà văn luôn có ý thức phát huy những tinh hoa của những tiếng nói văn học khác để tự làm giàu khả năng nghệ thuật của mình.
Soi rọi những lý thuyết về hiện thực và lãng mạn vào sáng tác của Thạch Lam, ta thấy sự tồn tại của cả hai tính chất. Không những thế, sự đan xen giữa hiện thực và lãng mạn còn xuất hiện ở ngay trong một tác phẩm. Chính điều này đã làm nên nét đặc sắc trong phong cách nghệ thuật của Thạch Lam.
Thạch Lam trước hết là một nhà văn lãng mạn. Yếu tố lãng mạn thấm đượm trong những trang viết của ông. Ra đời trong không khí sôi động của các trào lưu văn học giai đoạn 1930 – 1945, “Hai đứa trẻ” là một truyện ngắn hay, tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Thạch Lam. Thạch Lam đã tìm được lối biểu hiện riêng, tạo ra được sức lôi cuốn, ám ảnh đặc biệt. Người đọc như bị hút ngay vào thiên truyện trước hết bởi những câu văn mở đầu miêu tả khung cảnh buổi chiều quê đầy thơ mộng, mang đậm dấu ấn của làng quê đất Việt: “Chiều, chiều rồi, một buổi chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài ruộng theo gió nhẹ đưa vào...”. Có buổi chiều nào êm như ru trong cái nhìn của Nam Cao, Vũ Trọng Phụng? Chỉ có tâm hồn lãng mạn Thạch Lam mới có cái nhìn mượt mà và đậm chất thơ đến thế. Qua ngòi bút của ông, phố huyện tuy nghèo nhưng vẫn đáng yêu. Buổi chiều ở phố huyện là buổi chiều hiu hắt, man mác buồn nhưng cũng không kém phần thi vị với bản hòa âm thôn dã tạo nên từ những âm thanh quen thuộc của tiếng trống, tiếng ếch, tiếng muỗi... những hình ảnh, màu sắc đậm chất hội họa phương Đông: hình ảnh phương tây đỏ rực như lửa cháy, áng mây hồng, dãy tre làng đen lại. Bức tranh thiên nhiên được miêu tả bằng những câu văn nhẹ nhàng, với nhịp điệu du dương như ru hồn người, ru hồn hai đứa trẻ vào một thế giới thơ mộng. Phố huyện dưới ngòi bút của Thạch Lam buồn nhưng không thê thảm, lạng lẽ nhưng vẫn ẩn một nét đẹp dân dã, mang cái hồn của quê hương Việt Nam. Có thể nói, Thạch Lam đã chắt chiu những cái đẹp tiềm tàng ngay ở trong cuộc sống giản dị quanh mình.
Yếu tố lãng mạn của truyện còn là cái nhìn duy cảm trong nhân vật, là dòng tâm trạng của con người. Đây là trục cảm trung tâm của truyện, mà trước hết là tâm trạng của hai đứa trẻ trước cảnh chiều tàn. Liên và An là những đứa trẻ từng sống ở Hà Nội, nay theo mẹ về vùng quê hẻo lánh. Liên ngồi trong không gian bóng tối để những nỗi buồn quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ. Liên cảm nhận được cái yên lặng của khung cảnh chiều quê quen thuộc. Đó là tiếng trống thu không, là phương tây đỏ rực...gợi lên cái nhịp thời gian đang trôi, gieo vào lòng người một sự nuối tiếc mơ hồ, có cái gì đó khó nắm bắt. Cùng với cảm giác về thời gian còn là âm thanh tiếng ếch nhái văng vẳng ngoài đồng ruộng, tiếng muỗi vo ve, mùi âm ẩm và mùi cát bụi quen thuộc....Đó là những xúc cảm rất quen thuộc, thể hiện sự gắn bó với quê hương. Cảnh chợ tàn “người về hết và tiếng ồn ào cũng mất...” càng khiến lòng Liên thấm đẫm nỗi buồn về cuộc sống xác xơ, tiêu điều, đang đi vào chiều tàn lụi. Từ quán hàng chật hẹp nhỏ bé của mình, Liển hướng tầm mắt nhìn ra khung cảnh xung quanh và càng thêm xót thương cho những kiếp người nhỏ bé mong manh. Liên thương xót cho những đứa trẻ nghèo phải nhặt nhạnh tất cả những thứ còn xót lại của một phiên chợ tàn. Liên chia sẻ với mẹ con chị Tí bằng sự thấu hiểu về cuộc sống tẻ nhạt, quanh quẩn của mẹ con chị. Liên còn chia sẻ với sự ế ẩm của gánh phở bác Siêu...Đó là cảm nhận về sự mong manh của kiếp nười trong tâm hồn của một cô bé. Không những vậy Liên còn cảm nhận được cái tù túng trong cuộc sống của chính bản thân mình: giam hãm trong gian hàng nhỏ, lắm muỗi...Trong tâm trạng buồn, Liên hoài niệm về quá khứ và khao khát, hi vọng đợi chờ: đó là hi vọng chờ đợi một chuyến tàu đêm đi qua. Liên chờ tàu không phải để bán hàng mà là nhu cầu tinh thần hàng đêm. Bởi vậy, An dù buồn ngủ díu cả mắt vẫn cố dặn chị “tàu đến chị đánh thức em dậy nhé”. Hai chị em Liên chờ đợi tàu trong tâm trạng háo hức, bồi hồi như chờ đợi phút giao thừa thiêng liêng. Đoàn tàu đến trong sự mong chờ của cả hai chị em Liên. Liên và An hướng cả hồn mình vào đoàn tàu “tiếng còi đã rít lên và tàu rầm rộ đi tới”. Con tàu đã mang đến một thế giới khác đi qua, một thế giới rực rỡ, vui vẻ và huyên náo – một thế giới khác hẳn với sự nghèo khổ hàng ngày. Đoàn tàu không làm thay đổi cuộc sống nơi phố huyện nhưng sự xuất hiện của nó đủ để lại niềm khao khát cho con người nơi đây.
Chất lãng mạn còn toát lên từ những câu văn nhẹ nhàng như giăng mắc vào lòng người nỗi thương cảm, ngậm ngùi, xót xa cho những kiếp sống khắc khoải.
Nhưng không dừng lại ở chất lãng mạn, đối với Thạch Lam “văn chương không phải đem đến cho người đọc sự thoát li hay sự quên, trái lại văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, làm cho lòng người được thêm trong sạch và phong phú”. Chính vì vậy mà yếu tố lãng mạn và hiện thực đã hòa quyện nhau trong từng trang viết của Thạch Lam.
Chất hiện thực thể hiện rõ ở bức tranh phố huyện nghèo nàn với những cảnh đời mòn mỏi, quẩn quanh, bế tắc. Đó là cảnh một phiên chợ vãn ở miền quê được tác giả miêu tả chân thực đến từng chi tiết. Ống kính của nhà văn đã nhìn lại trên mặt đất để thấy: rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn. Đó là cảnh sống nơi phố huyện. Không ồn ào, không to tát, chỉ bằng những mảnh đời nhỏ bé như những lát cắt của cuộc sống, Thạch Lam đã tái hiện chân thực cảnh sống quẩn quanh, nhàm tẻ nơi phố huyện nghèo. Đó là gia đình chị Tí, ngày mò cua bắt ốc, tối dọn hàng. Dẫu chẳng kiếm được là bao nhưng ngày nào chị cũng dọn từ chập tối cho đến đêm. Cả gia tài của chị chỉ là một chõng hàng. Đây chính là một điển hình cho cuộc sống lay lắt, ngoi ngóp nơi phố huyện. Đó chỉ là sự cầm chừng, sự tồn tại trong vô vọng, không phải là sự sống thực sự. Hay là bà Thi điên với dáng đi lảo đảo và tiếng cười khanh khách tan vào trong bóng đêm. Là bác Siêu với gánh phở của mình hi vọng sẽ kiếm được chút gì để tồn tại, để cầm cự với sự sống. Là gia đình bác Xẩm dùng lời ca tiếng hát của mình để kiếm sống. Nhưng ở cái nơi ăn còn chẳng có thì người dân làm gì có thời gian để thưởng thức âm nhạc. Hay đó là hai đứa trẻ - những mảnh đời đáng thương nhất... Chừng ấy mảnh đời, kiếp người đã làm sống dậy hiện thực xã hội Việt Nam thời Pháp thuộc. Một xã hội sa sút, tiêu điều, trì trệ, một xã hội đang “nổi váng lên”. Đó là xã hội của những hình nhân biết cử động như trong thiên truyện “Tỏa nhị Kiều” của Xuân Diệu. Họ thực sự là những con người sống một cuộc đời “đời tẻ nhạt như tàu không đổi chuyến”.
Không đi vào những xung đột gay gắt, những số phận thê thảm như những nhà văn hiện thực, Thạch Lam đã lặng lẽ góp nhặt những mảnh đời thường nhật, những nhịp sống quen nhàm bình lặng, những đốm sáng leo lét trong bóng tối tịch mịch để làm nên bức tranh hiện thực khó quên. Bức tranh hiện thực ấy có sức ám ảnh có lẽ bởi Thạch Lam đã vẽ bằng bút pháp lãng mạn. Cái lãng mạn của Thạch Lam không phải là sự tô hồng đời sống của người dân phố huyện theo kiểu tiểu thuyết lãng mạn của Tự lực văn đoàn. Lãng mạn của Thạch Lam là vẻ đẹp tiềm tàng ngay trong đời sống giản dị quanh ta.
Qua sự phân tích trên ta thấy, mặc dù có sự phân chia văn học Việt Nam giai đoạn 1900 -1945 thành những khuynh hướng khác nhau nhưng các khuynh hướng không tách bạch nhau mà trái lại hòa quyện, kết hợp với nhau trong những tác phẩm cụ thể. Chính điều này đã góp phần làm nên một diện mạo sống động cho văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XX.


NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT TRONG TRUYỆN NÔM BÌNH DÂN QUA MỘT SỐ TÁC PHẨM TIÊU BIỂU (HOÀNG TRỪU, TỐNG TRÂN – CÚC HOA, NHỊ ĐỘ MAI)

NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT TRONG
TRUYỆN NÔM BÌNH DÂN QUA MỘT SỐ
TÁC PHẨM TIÊU BIỂU
(HOÀNG TRỪU, TỐNG TRÂN – CÚC HOA, NHỊ ĐỘ MAI)

MỤC LỤC
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ TRUYỆN NÔM BÌNH DÂN
1. Khái niệm truyện thơ Nôm bình dân
2. Tiền đề xuất hiện truyện thơ Nôm bình dân
2.1 Tiền đề lịch sử - văn hóa
2.2 Tiền đề văn hóa, văn học
          CHƯƠNG II: NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT TRONG TRUYỆN THƠ NÔM BÌNH DÂN
1.Ngôn ngữ bình dân trong truyện thơ Nôm bình dân
1.1   Quan niệm về ngôn ngữ bình dân
1.2   Biểu hiện của ngôn ngữ bình dân trong truyện thơ Nôm bình dân
1.2.1    Từ láy trong truyện thơ Nôm bình dân
1.2.2    Thi liệu dân gian trong truyện thơ Nôm bình dân
1.3   Giá trị của ngôn ngữ bình dân trong truyện thơ Nôm bình dân
1.3.1    Gía trị của ngôn ngữ bình dân nhìn từ mối quan hệ với một số yếu tố thuộc hình thức nghệ thuật
1.3.2    Giá trị của ngôn ngữ bình dân nhìn từ khả năng tạo nghĩa trong tác phẩm

 2. Ngôn ngữ bác học trong truyện thơ Nôm bình dân
2.1 Quan niệm về ngôn ngữ bác học
  2.2 Biểu hiện của ngôn ngữ bác học trong truyện thơ Nôm bình dân
      2.2.1 Điển tích, điển cố trong truyện thơ Nôm bình dân
      2.2.2 Từ Hán Việt trong truyện thơ Nôm bình dân
      2.3 Gía trị của ngôn ngữ bác học trong truyện thơ Nôm bình dân
          2.3.1 Gía trị của ngôn ngữ bác học nhìn từ mối quan hệ với một số yếu tố thuộc hình thức nghệ thuật
2.3.2     Giá trị của ngôn ngữ bác học nhìn từ khả năng tạo nghĩa trong tác phẩm
CHƯƠNG III: KẾT LUẬN  




CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ TRUYỆN NÔM BÌNH DÂN
1. Khái niệm truyện thơ Nôm bình dân
Khi tiến hành phân loại truyện thơ Nôm, có nhiều ý kiến và quan niệm khác nhau. Trong đó, quan niệm chia truyện thơ Nôm thành 2 loại: truyện thơ Nôm bình dân và truyện thơ Nôm bác học nhận được nhiều sự đồng tình hơn cả. Tiêu biểu là các tác giả: Dương Quảng Hàm, Đinh Gia Khánh, Cao Huy Đỉnh, Nguyễn Lộc…
- Dương Quảng Hàm là người dùng thuật ngữ Truyện thơ Nôm bình dân sớm nhất. Trong “Việt Nam văn học sử yếu”, ông viết: “thể này thường dùng để viết các truyện có tính cách bình dân như Quan Thế âm, Phạm Công – Cúc Hoa…”.
- Trong “Từ điển thuật ngữ văn học”, các tác giả đã chỉ ra những điểm khác nhau cơ bản giữa truyện Nôm bình dân và truyện Nôm bác học. Theo đó, “Truyện Nôm bình dân viết trên cơ sở truyện dân gian như Phạm Tải – Ngọc Hoa, Tống Trân – Cúc Hoa, Thạch Sanh….Truyện Nôm bình dân hầu như không có tên tác giả, được lưu truyền trong dân gian, ngôn ngữ bình dị, mộc mạc.”
- Nguyễn Lộc trong cuốn “Văn học Việt Nam (nửa cuối thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX) đã khẳng định kho tàng truyện Nôm Việt Nam tồn tại song song hai loại truyện: “Một loại là những truyện Nôm kiểu Phạm Tải – Ngọc Hoa, Tống Trân – Cúc Hoa, Phương Hoa, Lý Công, Hoàng Trừu…; một loại là những truyện Nôm kiểu Truyện Kiều, Hoa Tiên, Sơ kính tân trang, Phan Trần…Loại trên có thể gọi là truyện Nôm bình dân; loại dưới có thể gọi là truyện Nôm bác học.” Tiếp đó tác giả cũng đưa ra những tiêu chí để phân biệt truyện Nôm bình dân và truyện Nôm bác học. Các tiêu chí đó là: tác giả, nguồn gốc cốt truyện, chủ đề, hình thức nghệ thuật.
2. Tiền đề xuất hiện truyện thơ Nôm bình dân
2.1 Tiền đề lịch sử - văn hóa
- Truyện thơ Nôm bình dân xuất hiện khi trong xã hội xuất hiện những mâu thuẫn gay gắt. Đó là vào khoảng đầu thế kỉ XVI, nền chính trị của đất nước rơi vào khủng hoảng trầm trọng. Vua chúa ăn chơi sa đọa, nội bộ lục đục, tranh giành quyền lực. Từ giữa thế kỉ XVII – đến hết thế kỉ XVIII, đất nước hai lần rơi vào cảnh chia cắt. Hàng loạt cấc cuộc khởi nghĩa nông dân nổi lên, giềng mối xã hội bị đe dọa nghiêm trọng. Hoàn cảnh chính trị đó đã góp phần quan trọng vào việc thay đổi hình thái tư tưởng của thời đại. Nó không chỉ làm suy yếu và suwpj đổ hệ tư tưởng phong kiến mà còn nâng đỡ cho sự ra đời, phát triển của tinh thần dân chủ. Quần chúng nhân dân và một bộ phận nho sĩ tiến bộ đã nhận thấy được sự thối nát của xã hội, ý thức được quyền sống và sức mạnh của nhân dân. Đây chính là nguồn mạch tinh thần nuôi dưỡng cảm hứng sáng tạo và tư tưởng nhân văn trong truyện thơ Nôm.
- Công thương nghiệp phát triển cũng là lý do thúc ddaaayr sự xuất hiện của truyện thơ Nôm. Giai đoạn từ thế kỉ XVI – thế kỉ XVIII, công thương nghiệp phát triển rộng khắp. Trong thời đại có nhiều biến động về chính trị - xã hội, những xung đột nội bộ không thể giải quyết, kinh tế hàng hóa phát triển kéo theo đó là vai trò của đồng tiền, lối sống thị dân đã tác động vào sự băng hoại ý thức hệ của giai cấp thống trị. Trong truyện thơ Nôm có những chuyện như: vợ gian thông với đình trưởng để hắn thừa cơ cướp tiền giành dụm của chồng sao bao nhiêu năm đi làm ăn xa (Tống Trân – Cúc Hoa); một đại quan triều đình cũng đòi lót tay khi có cấp dưới xuống nhận chức (Nhị độ mai)… chính là biểu hiện của của sự suy thoái đạo đức trong một xã hội vì đồng tiền.
2.2 Tiền đề văn hóa, văn học
- Sự khởi sắc của nền văn hóa dân tộc đã tạo đà cho truyện Nôm phát triển, cung cấp cho truyện thơ Nôm nguồn chất liệu phong phú.
- Đến thế kỉ XVI, XVII cả chữ Nôm và thơ lục bát đều dã có một quá trình rèn rũa, trưởng thành. Do vậy, nó có đủ khả năng để truyền tải các vấn đề đời sống xẫ hội và đời sống tâm hồn con người.
CHƯƠNG 2: NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT TRONG TRUYỆN THƠ NÔM BÌNH DÂN
1. Ngôn ngữ bình dân trong truyện thơ Nôm bình dân
          1.1. Quan niệm về ngôn ngữ bình dân
- Theo Từ điển tiếng Việt, Viện ngôn ngữ học, Hoàng Phê (chủ biên): “Bình dân Id. 1. Người dân thường (nói khái quát, thường là trong xã hội cũ). Sự đối lập giữa quý tộc và bình dân. 2. (kng, dùng phụ sau d). Bình dân học vụ (nói tắt), giáo viên bình dân, lớp bình dân. It.1. Của tầng lớp bình dân, dành riêng cho tầng lớp bình dân. Văn học bình dân. Quán cơm bình dân. 2. Bình thường, giản dị, gần gũi với quần chúng: tác phong bình dân, cách nói năng rất bình dân” [23 - 68].
- Ngôn ngữ bình dân có thể được hiểu là ngôn ngữ giản dị, gần với lời ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân.
Trong văn học, ngôn ngữ bình dân gồm: Từ thuần Việt, từ láy, thi liệu dân gian…
          1.2 Biểu hiện của ngôn ngữ bình dân trong truyện thơ Nôm bình dân
          1.2.1 Từ láy trong truyện thơ Nôm bình dân
- Theo tác giả Đinh Trọng Lạc: “Từ láy là những từ được cấu tạo bằng cách nhân dôi tiếng gốc theo những quy tắc nhất định, sao cho quan hệ giữa các tiếng trong từ vừa điệp, vừa đối hài hòa với nhau về âm và nghĩa, có giá trị tượng trưng hóa”.
Trong tiếng Việt, từ láy là những từ có giá trị đặc biệt.
Với tính chất điệp âm thanh (một bộ phận hay toàn bộ từ), từ láy đã tăng cường sắc thái cho câu thơ tiếng Việt. Cơ sở của sự tăng cường đó chính là khả năng mở rộng tính chất, phạm vi ý nghĩa hoặc thu hẹp, làm giảm nhẹ tính chất cũng như phạm vi ý nghĩa cho hình vị cơ sở của từ. Chẳng hạn: “Xanh xanh” có phạm vi biểu vật hẹp hơn “xanh” nhưng lại có giá trị biểu thái cao hơn.
Từ láy là loại từ thể hiện một cách rõ nét nhất tính chất đa thanh điệu của ngôn ngữ tiếng Việt. Nó có khả năng biểu hiện chính xác từng gam màu trong thế giới tự nhiên cũng như từng sắc thái tinh vi của cảm xúc con người. “Sè sè nắm đất bên đường/ Dàu dàu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh”.
Từ láy góp phần quan trọng trong việc tạo nhịp điệu, âm thanh hay khái quát hơn là tạo chất thơ cho câu thơ: “Bước lần theo ngọn tiểu khê/ Lần theo phong cảnh có bề thanh thanh/ Nao nao dòng nước uốn quanh/ Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang”.
Với những khả năng to lớn như trên mà trong thơ tiếng Việt, từ láy rất được chú ý sử dụng và mang lại giá trị biểu cảm cao.
     - Viết bằng ngôn ngữ dân tộc, truyện thơ Nôm bình dân có điều kiện khai thác một cách tối đa giá trị tạo hình, biểu nghĩa của tiếng Việt, trong đó có việc sử dụng với mật độ khá dày hệ thống từ láy.
Từ láy được chú ý sử dụng ngay từ những truyện thơ Nôm xuất hiện đầu tiên và càng về sau, mật độ sử dụng từ láy càng tăng và trình độ vận dụng ngày càng điêu luyện hơn. Trong khóa luận tốt nghiệp của  một sinh viên trường Đại học sư phạm Huế, đã có những thống kê về số lượng sử dụng từ láy trong ba truyện thơ Nôm: Hoàng Trừu, Tống Trân – Cúc Hoa, Nhị độ mai. Kết quả thu được như sau:
   Tên truyện
Tổng số câu trích trong tập truyện
Số lần sử dụng từ láy
Trung bình số lần sử dụng từ láy/số câu.
Hoàng Trừu
732
186
1/3,9
Tống Trân – Cúc Hoa
1782
251
1/7,1
Nhị độ mai
2820
523
1/5,4
* Về các dạng thức sử dụng từ láy: các từ láy trong ba truyện thơ Nôm kể trên đa phần được sử dụng theo 2 dạng thức:
-  Thứ nhất: Theo quy luật ngữ pháp thông thường: từ láy đứng sau bổ trợ cho các danh, động, tính từ; tạo thành các cụm danh, động, tính từ.
Ví dụ:
+ Trong “Hoàng Trừu”
“Trời xanh nước biếc chỉ đề
Sang Nam Việt thấy tàu bè xôn xao
“Đồng rằng: Mới lại chuyến này
Ông tôi mười chiếc tàu đầy phe phe
+ Trong “Tống Trân – Cúc Hoa”                 
“Cúc Hoa nước mắt tả tơi hai hàng”
    “Cúc Hoa tủi thẹn tần ngần
   Cha sao chẳng sợ quỷ thần xét soi”
“Dưới khe nước chảy vang lừng
Đầu non thăm thẳm khơi chừng ghê thay”
+ Trong “Nhị độ mai”       
Quê người phong cảnh đìu hiu
Trăng thanh gió mát dường chiều chuộng ai”
Hoàng hôn gác mái chênh vênh
Truyền tìm quán khách bộ hành nghỉ ngơi”
- Thứ hai: đưa các từ láy lên phía trước các thực từ mà nó bổ trợ ý nghĩa để hình thành những đảo ngữ. Và những cụm từ đảo trang này thường mang lại hiệu quả diễn đạt cao cho câu thơ.
Ví dụ:
+ Trong “Hoàng Trừu”:
Mênh mông giữa chốn hải hà
Lòng trời còn tựa phúc nhà còn may
Cho nên trôi dạt đến đây
Bơ vơ thân gái đắng cay trăm đương”
+ Trong “Tống Trân – Cúc Hoa”:
Bừng bừng vừa mới rạng ngày
Bảng vàng choi chói treo ngay cửa đền”
+ Trong “Nhị độ mai”
Thênh thênh nhẹ bước thanh vân
Cành cây dám tưởng bận chân loan hoàng”
Nhởn nhơ hoa cỏ đón chào
Hang men móc vượn, cây xào xạc chim”
“Tung nghe ra giọng đâm hông
Mặt ngăn ngắt tím, mắt sòng sọc trông”
* Về các kiểu từ láy được sử dụng
- Đa phần các từ láy được sử dụng trong các truyện thơ Nôm bình dân là láy đôi.
Ví dụ:
Lạ lùng khôn xiết làm sao
Xăm xăm theo mụ cùng vào tới nơi”
(Hoàng Trừu)
“ Một mình vò võ trang đài
Chàng đi khuya sớm lấy ai hầu chàng”
( Tống Trân – Cúc Hoa)
Người đâu trong ngọc trắng ngà
Mặt vành vạnh nguyệt, tóc ngà ngà mây
Lập lòa mớ đính mớ thay,
Sắc xiêm hoa dệt, nét giày phượng thêu”
(Nhị độ mai)
       Nét độc đáo trong truyện thơ Nôm bình dân là tạo nên các liên hợp từ láy. Các từ láy đôi liên tiếp trong một câu thơ làm cho hình ảnh thơ có điểm nhấn rõ ràng, làm thơ dòng thơ trở nên đầy nhạc tính:
Nguy nga miếu mạo hẳn hoi,
Một tòa thần tượng trên ngồi nghiễm nhiên”
Lạ lùng bát ngát hơi dương
Nhìn qua rợn tóc, trông tường sởn gai”
(Nhị độ mai)
-   Sử dụng các từ láy tư:
“Trở về tấp tểnh tấp ta
Thày lay mách ả Vân ta mấy lời”
“Rõ mười còn tưởng mơ màng
Mừng mừng tủi tủi khóc than một hồi”
(Nhị độ mai)
   Theo tiến trình vận động của thể loại, các liên hợp từ láy và từ láy tư xuất hiện ngày càng nhiều.
1.2.2 Thi liệu dân gian trong truyện thơ Nôm bình dân
- Thi liệu dân gian được hiểu là những thành ngữ, tục ngữ, ca dao – những sản phẩm tinh thần của nhân dân lao động.
- Các truyện Nôm “Hoàng Trừu”, “Tống Trân – Cúc Hoa”, “Nhị độ mai” đều sử dụng đến các thi liệu dân gian, tuy nhiên mức độ có khác nhau. Trong đó, “Hoàng Trừu” có 24 lượt thành ngữ, 1 câu tục ngữ được sử dụng, không có ca dao. Ở “Tống Trân – Cúc Hoa” số lượt sử dụng tục ngữ là 1, thành ngữ là 18. Trong “Nhị độ mai” có 40 lượt thành ngữ, 5 lượt tục ngữ và 1 câu ca dao được sử dụng. (Theo kết quả thống kê trong khóa luận “Ngôn ngữ nghệ thuật trong truyện thơ Nôm bình dân trung đại” – ĐHSP Huế).
Nhìn vào kết quả thống kê trên có thể nhận thấy, thành ngữ được sử dụng với số lượng cao hơn hẳn so với tục ngữ và ca dao. Lý do của hiện tượng này nằm ngay ở lợi thế giàu hình ảnh, khả năng tạo nhịp điệu và cấu trúc khá gọn nhẹ của thành ngữ tiếng Việt. Ca dao và tục ngữ có thể không thua kém thành ngữ về mức độ hàm xúc, thậm chí còn hơn hẳn thành ngữ ở khả năng gợi dẫn các phạm vi ý nghĩa, kích thích tư duy của độc giả, nhưng do các câu tục ngữ và ca dao đều tồn tại ở cấp độ câu, có cấu trúc khép về nghĩa. Còn thành ngữ chỉ là một thành phần của câu sẵn có , tự nó không diễn tả được một ý trọn vẹn và cái ý không trọn vẹn của thành ngữ, người sử dụng có thể làm cho nó trở nên trọn vẹn theo ý muốn chủ quan của mình. Do những đặc điểm đó mà thành ngữ được vận dụng nhiều hơn cả trong các truyện thơ Nôm bình dân.
- Phương thức sử dụng thi liệu dân gian: các tác giả truyện thơ Nôm bình dân đã nỗ lực để vận dụng thi liệu dân gian một cách linh hoạt nhất sao cho có được những câu thơ sinh động, vừa đẹp lời, vừa đảm bảo ý. Trong đó, có 2 phương thức cơ bản được các tác giả sử dụng: giữ nguyên thi liệu gốc và mượn ý thi liệu rồi diễn đạt theo cách khác (bao gồm mượn ý – đảo lời, mượn ý – rút gọn và mượn ý – tách lời).
+ Giữ nguyên thi liệu gốc:
Âm thầm liệu bảy lo ba
Đạo chông cũng nặng, đạo cha cũng đầy”
(Hoàng Trừu)
Đỏ chen đen tránh là thường
Xin nguôi kẻ khó mà thương kẻ giàu”
(Tống Trân – Cúc Hoa)
“Mọi bề trong ấm ngoài êm
Chị dù chín suối cũng cam tấc lòng”
“Hiếm hoi chút gái vụng hèn
Nâng khăn sửa túi, xin yên phận nhờ”
(Nhị độ mai)
+ Mượn ý – đảo lời:
May rằng áo ấm cơm no
Chẳng ngại sương tuyết chẳng lo cơ hàn”
(Hoàng Trừu)
“Ngỡ là giai lão bách niên
Thung dung đẹp cánh chim uyện trên trời”
(Tống Trân – Cúc Hoa)
“Người tuổi tác, khách cô đơn
Để ai tan nghé, rẽ đàn vì ai?”
+ Mượn ý – rút gọn lời:
“Tấm thân lầm cát bấy chầy
Ví như nước đổ bốc đầy được không?”
(Hoàng Trừu)
“Phương chi thế sự bây giờ
Dễ dò bụng hiểm khôn lừa mưu gian
(Nhị độ mai)
+ Mượn ý – tách lời:
Thuyền son đỗ chẳng phải đầm
Như đàn cầm gảy tai trâu biết gì”
(Hoàng Trừu)
1.3 Gía trị của ngôn ngữ bình dân trong truyện thơ Nôm bình dân
1.3.1 Gía trị của ngôn ngữ bình dân nhìn từ mối quan hệ với một số yếu tố thuộc hình thức nghệ thuật
Ngôn ngữ bình dân có vai trò rất lớn trong việc tạo vần, luật, nhịp điệu cho câu thơ.
- Thơ lục bát Việt Nam rất chú trọng gieo vần. Hầu như mọi yếu tố của hệ thống hình thức đều có thể ảnh hưởng đến việc gieo vần trong thơ. Từ láy và các thi liệu dân gian cũng ảnh hưởng đáng kể đến việc gieo vần trong truyện thơ Nôm bình dân.
+ Các truyện thơ Nôm bình dân viết theo thể lục bát, những từ láy ở vị trí giữa và cuối câu chiếm tỉ lệ rất cao, đó đều là những vị trí gieo vần (chữ thứ 6 của câu lục vần với chữ thứ 6 của câu bát). Vì vậy, những từ láy được bố trí ở hai vị trí này có vai trò rất lớn trong việc gieo vần cho câu thơ.
“Chồng cũ đã đi mười đông
Bây giờ chồng mới tin dùng yêu đương
Đỏ chen đen tránh là thường
Xin nguôi kẻ khó mà thương kẻ giàu
 (Tống Trân – Cúc Hoa)
“Nhớ tên hiệu chữ Mai đồng
Đề vào mảnh giấy dán trong nắm hòm
Ra vào giấu giếm , nom dòm
Gọi là tiện chút sớm hôm phụng thờ”
(Nhị độ mai)
+ Về khả năng gieo vần, thành ngữ - tục ngữ - ca dao trong các truyện thơ Nôm cũng không chịu thua các từ láy mặc dù để thực hiện được chức năng này, tác giả truyện Nôm gặp khó khăn hơn nhiều. Nguyên nhân là do dung lượng của các thi liệu dân gian lớn hơn và chúng có cấu trúc bền vững nên rất khó để sử dụng uyển chuyển , linh hoạt. Tuy nhiên, các tác giả đã cố gắng vượt qua được những khó khăn đó để cho ra đời những câu thơ vừa nhuần nhụy, tinh tế về âm hưởng, vừa giàu hình ảnh.
Thôi thôi đừng quản thiệt hơn
Băn khoăn kén cá phàn nàn chọn canh”
 (Nhị độ mai)
- Từ láy, thi liệu dân gian đều góp phần tạo nên nhịp điệu cho các truyện thơ Nôm bình dân.
+ Tuyệt đại đa số các thành ngữ, tục ngữ trong truyện thơ Nôm bình dân có cấu tạo 4 chữ cân xứng. Các tác giả truyện Nôm bình dân đã tận dụng triệt để cấu trúc cân xứng đó của thành ngữ, tục ngữ vào việc tạo nhịp cho câu thơ.
“Âm thầm /liệu bảy lo ba” (Hoàng Trừu)
“Vinh quy bái tổ/tên chàng Tống Trân”
(Tống Trân – Cúc Hoa)
“Ông rằng/nhục nhớn nan tri”
(Nhị độ mai)
=> Trong những câu thơ này, các thành ngữ, tục ngữ góp phần tạo nhịp 4 cho câu thơ lục bát.
Hay tạo ra nhịp 2/2/2: “Trứng rồng/lại nở /ra rồng”
                                               (Hoàng Trừu)
+ Các từ láy được sử dụng trong các truyện thơ Nôm bình dân có khả năng tăng cường ngữ điệu cho nhịp thơ. Đặc biệt là các từ láy liên hoàn được vận dụng một cách khéo léo, khiến cho câu thơ như những nốt nhạc lên xuống trầm bổng:
“Buồn thì bà quận bạn cùng
Giữ gìn/ tắm táp/ bé bồng/ tương liên”
(Hoàng Trừu)
“Thẹn thùng/ lững thững/ chân dời
Nàng e còn đứng, chàng coi đã tường”
(Nhị độ mai)
Như vậy, nhìn chung trong truyện thơ Nôm bình dân, sự tác động của ngôn ngữ bình dân tới một số phương diện thuộc hình thức nghệ thuật là khá rõ, từ đó chúng ta có được những câu thơ hay, giàu sắc thái biểu cảm.
1.3.2 Gía trị của ngôn ngữ bình dân nhìn từ khả năng tạo nghĩa trong tác phẩm
Ngôn ngữ bình dân không chỉ góp phầm làm đẹp cho hình thức mà còn góp phần biểu hiện nội dung tư tưởng của tác phẩm. Tác giả truyện thơ Nôm bình dân đã chứng minh cho những khả năng thuộc về bản chất của một bộ phận từ ngữ tiếng Việt trong việc thể hiện các nội dung lớn của đời sống xã hội cũng như nội tâm con người. Cụ thể: từ láy có khả năng miêu tả, qua đó bộc lộ tâm trạng nhân vật; thành ngữ - tục ngữ - ca dao có khả năng thể hiện nội dung suy tư thế sự và triết lí.
* Từ láy góp phần thể hiện nội dung miêu tả
- Nhờ các từ láy, tác giả truyện thơ Nôm đã dựng nên những bức tranh thiên nhiên sinh động, qua đó thể hiện thái độ của người kể chuyện và nội tâm nhân vật.
Trong “Nhị độ mai” khung cảnh núi non trên đường Hạnh Nguyên đi cống Hồ được miêu tả hết sức sinh động nhờ các từ “mờ mịt”, “chon von”, “cheo leo”, “ngổn ngang”.  Đó vừa là bức tranh ngoại cảnh vừa là bức tranh tâm cảnh:
“Hỏi tên là Lạc Nhạn đài
Trùm mây mờ mịt ngất trời chon von
Cheo leo sườn núi trông ngang
Khe kia suối nọ ngổn ngang mấy trùng”
(Nhị độ mai)
Trong “Hoàng Trừu”, “Tống Trân – Cúc Hoa” cũng có rất nhiều đoạn miêu tả cảnh thiên nhiên như vậy.
- Nhiều khi chỉ bằng một câu với sự góp công của từ láy, tác giả đã lột trần được bản chất của nhân vật:
“Tung nghe ra giọng đâm hông
Mặt ngăn ngắt tím, mắt sòng sọc trông”
(Nhị độ mai)
Tác giả Nhị độ mai đã lợi dụng trọng âm của từ láy đôi “ngăn ngắt” và “sòng sọc” để tăng cường độ nhấn và bộc lộ thái độ đánh giá. Trọng âm của “ngăn ngắt” “sòng sọc” đều nằm ở hai âm phía sau. Các chữ “ngắt” và “sọc” cùng là âm trắc, nhờ đó, mức độ sắc thái và âm hưởng của từ được nâng cao hơn rõ rệt so với các từ gần nghĩa như: tím, tim tím, chằm chằm, lăm lăm,... Hơn nữa, khi đứng trước các thực từ mà nó tham gia bổ trợ nghĩa (tính từ “tím”, động từ “trông”), “ngăn ngắt”, “sòng sọc” đã làm cho đối tượng miêu tả (khuôn mặt và ánh mắt kẻ gian thần) được khắc sâu với những nét rất đặc trưng. Vì vậy, các từ láy âm: “ngăn ngắt”, “sòng sọc” đã giúp tác giả “chộp” được thái độ của Hoàng Tung trong một khoảnh khắc khi Mai Bá Cao dũng cảm vạch mặt y, qua đó người đọc thấy được lòng hãi sợ của một kẻ chuyên gây điều ác.
*Thi liệu dân gian góp phần thể hiện nội dung thế sự
Do đặc trưng của mình, các thi liệu dân gian khi đi vào truyện thơ Nôm bình dân đã thể hiện khá sâu sắc những trăn trở, suy tư của người bình dân trước các vấn đề cuộc sống, trọng tâm là vấn đề tình nghĩa, đạo đức và lẽ công bằng.
Các câu thành ngữ: “ngồi ăn núi lở”trong Truyện “Tống Trân – Cúc Hoa” là những kinh nghiệm, suy tư và cũng là lời răn về giá trị của lao động.
“Bán vàng nào có là bao
Ăn không núi cũng ngày hao một ngày”
Các câu thành ngữ “nửa tấc tới trời”, “lòng cá dạ chim” trong “Nhị độ mai” lại cho ta thấy những suy tư về con người của các tác giả truyện Nôm.
Suy tư thế sự, đúc rút kinh nghiệm là những nội dung đặc trưng của thi liệu dân gian, đặc biệt là tục ngữ. Khi tồn tại trong Truyện thơ Nôm bình dân, những nội dung này được phát huy, đem lại những câu thơ hàm xúc, giàu hình tượng, giúp tác giả nâng cao hiệu quả diễn đạt.
2. Ngôn ngữ bác học trong truyện thơ Nôm bình dân
2.1 Quan niệm về ngôn ngữ bác học    
- “Bác học I. Người học rộng, hiểu biết sâu về một hoặc nhiều ngành khoa học. II. Theo lối của nhà bác học, có tính chất khó hiểu, không bình dân.”
- Ngôn ngữ bác học có thể được hiểu là thứ ngôn ngữ trang trọng, tao nhã, có tính chất khó hiểu. Ngôn ngữ bác học trong văn học bao gồm: các từ Hán Việt, hệ thống các điển tích, điển cố…
2.2 Biểu hiện của ngôn ngữ bác học trong truyện Nôm bình dân
2.2.1 Điển tích, điển cố trong truyện thơ Nôm bình dân
- Dùng điển là một đặc trưng nổi bật của văn học trung đại Việt Nam. Cội nguồn của nó là tâm lý sùng cổ, trọng cổ của người xưa và lối học từ chương gắn liền với kinh sử, tử, tập ở thời trung đại.
Những điển tích, điển cổ được sử dụng trong các sáng tác thời trung đại đa phần đều lầy từ kinh, sách Trung Quốc. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của thể loại và ý thức về ngôn ngữ dân tộc, các tác giả thời trung đại, trong đó có tác giả thơ Nôm bình dân đã tìm cách “Việt hóa” các điển có nguồn gốc Trung Hoa bên cạnh việc sử dụng cả những điển có trong sách vở xưa, trong các câu chuyện được lưu truyền của dân tộc.
Số lần sử dụng điển trong các truyện thơ Nôm được khảo sát như sau: “Hoàng Trừu”: 12 lần; “Tống Trân – Cúc Hoa”: 22 lần; “Nhị độ mai”: 85 lần. (Theo kết quả khảo sát của khóa luận “Ngôn ngữ nghệ thuật trong truyện Nôm bình dân trung đại”).
-         Cách thức sử dụng điển tích điển cố:
+ Những điển tích, điển cố được các tác giả giữ nguyên, không có cải biên gì. Ví dụ: Lưu lang, Châu Trần (Hoàng Trừu), hậu, Hán hoàng (Tống Trân – Cúc Hoa),
Lưu lang còn được bèn vời
Huống chi người cũng là người trần gian”
(Hoàng Trừu)
Lưu lang : chàng Lưu , người Trung Quốc ngày xưa đi lấy thuốc lạc vào động thiên thai gặp tiên. Ý nói người ở trần cũng gặp được tiên.
“Kìa như Lã Hậu đồn rằng
Hán Hoàng mới thác đã lòng riêng tây”
(Tống Trân – Cúc Hoa)
Lã Hậu – vợ Lưu Bang, tư tình với nhiều người. Hán Hoàng – Hán Cao Tổ. Ý nói những ngường phụ nữ không chung thủy.
+ Những điển được Việt hóa.
Câu thơ:
“Hiếm hoi mới được mộng xà
Vân Tiên một gái mặt hoa khuynh thành
(Nhị độ mai)
Lấy ý từ tích của Trung Quốc, một trong Kinh Thi, nhắc tới chuyện mơ thấy rắn - điềm sinh con gái: “Cát mộng duy hà? Duy hùng, duy bi nam tử chi tường” (Xem chiêm bao lành dữ thế nào? Chiêm bao thấy gấu và rắn. Quan đoán mộng trả lời: chiêm  bao thấy gấu là điềm sinh con trai, chiêm thấy rắn là sinh con gái).
Tóm lại, dùng điển là việc khá phổ biến trong các truyện thơ Nôm bình dân tuy mật độ không dày. Hầu hết các điển được tác giả lựa chọn sử dụng đều không quá xa lạ với người đọc, trong đó có những điển gần gũi, quen thuộc ngay cả với lớp độc giả dân chúng. Bằng những cách khác nhau, tác giả truyện thơ Nôm bình dân đã nỗ lực Việt hóa điển tích, điển cố Hán trong các sáng tác của mình như một minh chứng theo ý thức dân tộc trong hoạt động sáng tạo ngôn từ.
2.2.2 Từ Hán Việt trong truyện thơ Nôm bình dân
Trong truyện thơ Nôm bình dân, các từ Hán Việt thường được dùng để chỉ các thuật ngữ biểu hiện khái niệm của Nho giáo: đạo, nhân, nghĩa, lễ, trung, hiếu, cương thường…; biểu đạt các khái niệm thuộc lĩnh vực quan trường, thi cử: tam khôi, bảng rồng, mặt rồng, roi đồng, bộ hình, trạng nguyên, bảng nhãn, sĩ tử, tứ thư, thi đình, tuần phủ, vạn tuế, nhất phẩm, khâm thiên giám, bách quan văn võ, thiên nhau, chiếu, chỉ, bảng rồng, phẩm, Đô ngự sử, Thái bảo, tam cấp, phủ nha, ngự tửu, công pháp, ba tòa, ngọ môn, án tấu...
Vậy nên mượn mụ đưa đường
Vào xem có xứng cương thường sẽ hay”
Trượng phu thật đấng trung nghì
Chẳng như ăn xổi ở thì mà lo”
(Hoàng Trừu)
Đố ai biết mặt khôi hoa
Có hai chị gái biết là tiên cung”
“Nàng ấy có nghĩa thay là,
Nuôi chồng đi học đăng khoa bảng rồng”
                              (Tống Trân – Cúc Hoa)       
2.2.3 Thành ngữ gốc Hán trong truyện thơ Nôm bình dân
Trong truyện thơ Nôm bình dân, thành ngữ gốc Hán được sử dụng không nhiều: “Hoàng Trừu”: không có, “Tống Trân – Cúc Hoa”: 3 lần, “Nhị Độ Mai”: 5 lần
Trong 8 lần sử dụng, có tới 5 lần thành ngữ được dùng theo lối biến cách, 2 lần giữ nguyên.
-          5 lần biến cách thành ngữ gốc Hán:
Thành ngữ biến cách
Thành ngữ gốc
Phương pháp biến cách
1. “Tới kỳ mãn nguyệt gặp đầu thai sinh”
( Tống Trân – Cúc Hoa)
Mãn nguyệt khai hoa
Tách + dịch
2. “Giai lão bách niên”
(Tống Trân – Cúc Hoa)
Bách niên giai lão
Đảo trật tự
3. “Vũ giá đằng vân”
(Nhị độ mai)
Đằng vân vũ giã
Đảo trật tự
4. “Thanh ứng khí cầu”
(Nhị độ mai)
Đồng thanh tương ứng đồng khí tương cầu
Rút gọn
5. “Họa chí vô đơn”
(Nhị độ mai)
Họa vô đơn chí
Đảo trật tự
- 3 lần sử dụng thành ngữ gốc Hán nguyên gốc:
+ “Đồng tịch đồng sàng” (TT-CH)
+ “Nhục nhỡn nan tri” (NĐM)
+ “Đằng vân giá vũ” (NĐM)
(Số liệu thống kê được lấy từ khóa luận “Ngôn ngữ nghệ thuật trong truyện thơ Nôm bình dân trung đại)
Tóm lại, thành ngữ gốc Hán trong truyện thơ Nôm bình dân ít được sử dụng. Đa phần chúng được biến cách bằng các phương thức khác nhau để thể hiện tốt nhất dụng ý của tác giả. Nhìn vào lịch sử văn học và trong tương quan so sánh với thể loại khác, chúng ta thấy, việc ít vận dụng thành ngữ gốc Hán trong các truyện thơ Nôm bình dân có nguyên nhân từ đặc điểm lưu truyền, đối tượng thưởng thức và “tính khách quan của ngôn ngữ thể loại”, trong đó, nguyên nhân sau đóng vai trò trọng yếu.
2.3 Gía trị của ngôn ngữ bác học trong truyện thơ Nôm bình dân
          2.3.1 Gía trị của ngôn ngữ bác học bình nhìn từ mối quan hệ với các yếu tố thuộc hình thức nghệ thuật
          * Góp phần tạo vần, nhịp và cấu trúc câu thơ
          - Các điển tích điển cố giữ vai trò tạo nhịp 4 cho câu thơ:
 + “Ngựa Hồ chim Việt” trong câu  “Ngựa Hồ chim Việt/luống đau phiền”
+ “Vũ giá vân đằng” trong câu: “Giữa trời/ vũ giá vân đằng/ đem đi”
+ “Thanh ứng khí cầu”, trong câu: “Than rằng/ “thanh ứng khí cầu”
+ “Họa chí vô đơn”, trong câu:  “Lời rằng/ họa chí vô đơn/ cũng thường”
+ “Nhục nhỡn nan tri” trong câu: “Ông rằng/ nhục nhỡn nan tri”
+ “Đằng vân giá vũ”, trong câu: “Đằng vân giá vũ/ cũng ghê”
+ “Đồng tịch đồng sàng” trong câu: “Vợ chồng/ đồng tịch đồng sàng”
- Các điển tích điển cố có tác dụng tạo vần:
+ “Thanh ứng khí cầu”, gieo vần “âu” với câu bát trên và câu bát dưới:
“Như khêu tấm dạ trung nghì
Dạy đem nghiên bút thư đề mấy câu
Than rằng: Thanh ứng khí cầu
Người kim cổ bụng trước sau một đường”
                                                                      (Nhị Độ Mai)
* Góp phần tạo tính ước lệ cho các hình ảnh thơ
Xây dựng tính ước lệ là khả năng lớn nhất và đặc trưng nhất của điển tích, điển cố, xét trong mối quan hệ với hình thức nghệ thuật, câu thơ, bài thơ.
Mọi hình ảnh trong câu thơ Nôm bình dân được hình thành do điển đều mang tính ước lệ. Các hình ảnh: Nàng Châu ả Hằng, Châu Trần, cung trăng Quảng Hàn, Lưu Lang , Ải Tần…( Hoàng Trừu) , trong Tống Trần – Cúc Hoa: hội rồng mây, Lã Hậu, Hán Hoàng, Kẻ Tấn người Tần, Nguyệt lão… Vẩy rồng, huyên đình, Tô Quân, Lạc Nhạn Đài, thung đường, đông sàng, bẻ quế, tung mây…trong (Nhị độ mai) đều mang tính ước lệ.  Những hình ảnh như trên đã giúp câu thơ lục bát trở nên ngắn gọn và súc tích hơn một cách đáng kể.
2.3.2 Gía trị của ngôn ngữ bác học nhìn từ khả năng biểu đạt nội dung tư tưởng.
* Góp phần thể hiện nội dung ngợi ca, khẳng định
Điều thú vị ở các thành ngữ gốc Hán trong truyện thơ Nôm bình dân là cả 8 lần xuất hiện đều dành để nói các nhân vật chính diện. Có khi nó nằm trong lời nhân vật như: “nhục nhỡn nạn tri”, “thanh ứng khí cầu”, “đồng tịch đồng sàng”, “giai lão bách niên”, “Ngựa Hồ chim Việt”, cũng có khi nó là lời của người kể chuyện như: “mãn nguyệt khai hoa”, “vũ giá đằng vân”, “đằng vần giá vũ” , “họa chí vô đơn”.
Ví như hai lần tác giả dùng thành ngữ gốc Hán để khẳng định tình nghĩa vợ chồng đều được đặt trong lời nhân vật Cúc Hoa ở một hoàn cảnh đặc biệt – Tống Trân, chồng nàng, phải đi sứ Tần:
“Vợ chồng đồng tịch đồng sàng
Anh giã ơn nàng nuôi mẹ anh đi”
Đó là những lời trân trọng, tha thiết của người vợ sau bao năm nuôi mẹ đợi chồng “vinh qui bái tổ” nay buộc phải chấp nhận chia ly để chồng đi sứ. Ở đoạn khác, câu 1083, cũng là lời Cúc Hoa than thở: “Ngỡ là giai bão bách niên”. Trước lúc lên kiệu hoa trong một cuộc ép duyên trắng trợn của người cha, Cúc Hoa lần giở 3 bộ quần áo, những kỉ vật của 2 vợ chồng từ thưở hàn vi, ra xem (lúc này Tống Trân đang ở bên nước Tần). Nàng không khỏi đau xót cho tình cảnh vợ chồng li tán. Thành ngữ “giai lão bách niên” (hay bách niên giai lão) là lời chúc phúc thường gặp trong các đám cưới và cũng là ước mong của cổ dâu, chú rể, ngờ đâu, lúc này lại nằm trong lời than thở cho hạnh phúc không trọn! Cả “đồng tịch đồng sàng” lẫn “giai lão bách niên” đều được sử dụng trong những bối cảnh đặc biệt đã góp phần thể hiện và khẳng định tấm lòng chung thủy của nhân vật Cúc Hoa.
* Góp phần thể hiện nội dung đạo đức, quan niệm nhân sinh
Sự có mặt khá dày các từ Hán Việt biểu đạt khái niệm tư tưởng, tôn giáo, quan phương trong truyện thơ Nôm bình dân đã cho thấy khá rõ dụng ý của tác giả trong việc thể hiện các vấn đề nội dung - tư tưởng. Với đặc trưng và khả năng của mình, lớp từ này góp phần đắc lực trong việc nêu cao nội dung đạo đức, bộc lộ quan niệm của tác giả về nhân sinh và cuộc sống.
Nhân, lễ, nghĩa, trung, hiếu, tiết là những nội dung lớn trong các truyện thơ Nôm bình dân. Để thể hiện nội dung này, tác giả đã xây dựng nên những hình tượng nhân vật tiêu biểu cho các phạm trù đạo đức đó, tiêu biểu cho lòng nhân (bao gồm cả lòng “nhân” theo quan niệm Nho giáo và lòng nhân đạo trong quan niệm nhân dân) có: Sơn tinh (Tống Trân - Cúc Hoa), Mai Bá Cao, Châu Bá Phù, Trần Đông Sơ (Nhị độ mai); tiêu biểu cho chữ nghĩa có Hỉ Đồng gia đình ngư dân, Phùng Lạc Thiện, Mai Bạch, Mai Lương Ngọc (Nhị độ mai), tiêu biểu cho chữ trung có: Tống Trân (Tống Trân - Cúc Hoa), Hoàng Trừu (Hoàng Trừu), Mai Bá Cao (Nhị độ mai); chữ hiếu có Mai Lương Ngọc, Hạnh Nguyên (Nhị độ mai); Cúc Hoa (Tống Trân - Cúc Hoa); chữ tiết có Cúc Hoa (Tống Trân - Cúc Hoa), công chúa Nam Việt (Hoàng Trừu), Hạnh Nguyên (Nhị độ mai). Những con người đó dù có ở địa vị nào: giàu sang, nghèo hèn ra sao cũng không bao giờ thay đổi bản chất. Đó là đối tượng của sự khẳng định, ngợi ca, là lực lượng nêu cao cái tốt đẹp trong cuộc sống, đấu tranh chống lại bọn tà gian, hiểm ác, không có tính người, bảo vệ đạo đức xã hội.

CHƯƠNG III: KẾT LUẬN
1.  Qua sự phân tích trên ta thấy, ngôn ngữ trong truyện thơ Nôm bình dân bao gồm cả ngôn ngữ bình dân và ngôn ngữ bác học. Sự kết hợp củ hai loại ngôn ngữ này trong tác phẩm truyện thơ Nôm bình dân đã mang lại hiệu quả nghệ thuật cao.
2. Mặc dù vậy, trong truyện Nôm bình dân, ngôn ngữ chưa được trau chuốt, chưa được gia công nghệ thuật nhiều. Từ ngữ sử dụng không chính xác, không súc tích, ít có hình ảnh.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.     Đỗ Hữu Châu, Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt, Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội.
2.     Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (2006), Từ điển thuật ngữ văn học, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội
3.     Nguyễn Lộc (1999), Văn học Việt Nam, nửa cuối thế kỷ XVIII đến hết thế kỷ XIX, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội
4.     Phan Ngọc (1985), Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều, Viện Đông Nam Á, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội
5.     Hoàng Phê (chủ biên) (2001), Từ điển tiếng Việt, Viện ngôn ngữ học, Nhà xuất bản Đà Nẵng, Trung tâm Từ điển học Hà Nội – Đà Nẵng
6.     Lê Văn Quán (chủ biên) (1993), Tổng tập Văn học Việt Nam, tập 14 A, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội
7.     Lã Nhâm Thìn (chủ biên) (2015), Giáo trình văn học trung đại Việt Nam, NXB GD.
8.     Khóa luận, Ngôn ngữ nghệ thuật trong truyện thơ Nôm bình dân trung đại. ĐHSP Huế.