NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT
TRONG
TRUYỆN NÔM BÌNH DÂN QUA
MỘT SỐ
TÁC PHẨM TIÊU BIỂU
(HOÀNG TRỪU, TỐNG TRÂN
– CÚC HOA, NHỊ ĐỘ MAI)
MỤC LỤC
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ
TRUYỆN NÔM BÌNH DÂN
1. Khái niệm truyện thơ
Nôm bình dân
2. Tiền đề xuất hiện
truyện thơ Nôm bình dân
2.1 Tiền đề lịch
sử - văn hóa
2.2 Tiền đề
văn hóa, văn học
CHƯƠNG
II: NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT TRONG TRUYỆN THƠ NÔM BÌNH DÂN
1.Ngôn ngữ bình dân trong truyện thơ
Nôm bình dân
1.1 Quan niệm về ngôn ngữ bình dân
1.2 Biểu hiện của ngôn ngữ bình dân trong
truyện thơ Nôm bình dân
1.2.1 Từ láy trong truyện thơ Nôm bình dân
1.2.2 Thi liệu dân gian trong truyện thơ
Nôm bình dân
1.3 Giá trị của ngôn ngữ bình dân trong
truyện thơ Nôm bình dân
1.3.1 Gía trị của ngôn ngữ bình dân nhìn từ
mối quan hệ với một số yếu tố thuộc hình thức nghệ thuật
1.3.2 Giá trị của ngôn ngữ bình dân nhìn từ
khả năng tạo nghĩa trong tác phẩm
2. Ngôn ngữ bác học
trong truyện thơ Nôm bình dân
2.1 Quan niệm về ngôn ngữ bác học
2.2 Biểu hiện của
ngôn ngữ bác học trong truyện thơ Nôm bình dân
2.2.1
Điển tích, điển cố trong truyện thơ Nôm bình dân
2.2.2
Từ Hán Việt trong truyện thơ Nôm bình dân
2.3 Gía trị của ngôn ngữ bác
học trong truyện thơ Nôm bình dân
2.3.1 Gía trị của ngôn ngữ bác học
nhìn từ mối quan hệ với một số yếu tố thuộc hình thức nghệ thuật
2.3.2
Giá
trị của ngôn ngữ bác học nhìn từ khả năng tạo nghĩa trong tác phẩm
CHƯƠNG III: KẾT LUẬN
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ
TRUYỆN NÔM BÌNH DÂN
1. Khái niệm truyện thơ
Nôm bình dân
Khi tiến hành phân loại truyện thơ Nôm, có nhiều ý kiến và
quan niệm khác nhau. Trong đó, quan niệm chia truyện thơ Nôm thành 2 loại: truyện
thơ Nôm bình dân và truyện thơ Nôm bác học nhận được nhiều sự đồng tình hơn cả.
Tiêu biểu là các tác giả: Dương Quảng Hàm, Đinh Gia Khánh, Cao Huy Đỉnh, Nguyễn
Lộc…
- Dương Quảng Hàm là người dùng thuật ngữ Truyện thơ Nôm bình
dân sớm nhất. Trong “Việt Nam văn học sử yếu”, ông viết: “thể này thường dùng để viết các
truyện có tính cách bình dân như Quan Thế âm, Phạm Công – Cúc Hoa…”.
- Trong “Từ điển thuật ngữ văn học”, các tác giả đã chỉ ra những
điểm khác nhau cơ bản giữa truyện Nôm bình dân và truyện Nôm bác học. Theo đó, “Truyện
Nôm bình dân viết trên cơ sở truyện dân gian như Phạm Tải – Ngọc Hoa, Tống Trân
– Cúc Hoa, Thạch Sanh….Truyện Nôm bình dân hầu như không có tên tác giả, được
lưu truyền trong dân gian, ngôn ngữ bình dị, mộc mạc.”
- Nguyễn Lộc trong cuốn “Văn học Việt Nam (nửa cuối thế kỉ
XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX) đã khẳng định kho tàng truyện Nôm Việt Nam tồn tại
song song hai loại truyện: “Một loại là
những truyện Nôm kiểu Phạm Tải – Ngọc Hoa, Tống Trân – Cúc Hoa, Phương Hoa, Lý
Công, Hoàng Trừu…; một loại là những truyện Nôm kiểu Truyện Kiều, Hoa Tiên, Sơ
kính tân trang, Phan Trần…Loại trên có thể gọi là truyện Nôm bình dân; loại dưới
có thể gọi là truyện Nôm bác học.” Tiếp đó tác giả cũng đưa ra những tiêu
chí để phân biệt truyện Nôm bình dân và truyện Nôm bác học. Các tiêu chí đó là:
tác giả, nguồn gốc cốt truyện, chủ đề, hình thức nghệ thuật.
2. Tiền đề xuất hiện
truyện thơ Nôm bình dân
2.1 Tiền đề lịch sử - văn hóa
- Truyện thơ Nôm bình dân xuất hiện khi trong xã hội xuất hiện
những mâu thuẫn gay gắt. Đó là vào khoảng đầu thế kỉ XVI, nền chính trị của đất
nước rơi vào khủng hoảng trầm trọng. Vua chúa ăn chơi sa đọa, nội bộ lục đục,
tranh giành quyền lực. Từ giữa thế kỉ XVII – đến hết thế kỉ XVIII, đất nước hai
lần rơi vào cảnh chia cắt. Hàng loạt cấc cuộc khởi nghĩa nông dân nổi lên, giềng
mối xã hội bị đe dọa nghiêm trọng. Hoàn cảnh chính trị đó đã góp phần quan trọng
vào việc thay đổi hình thái tư tưởng của thời đại. Nó không chỉ làm suy yếu và
suwpj đổ hệ tư tưởng phong kiến mà còn nâng đỡ cho sự ra đời, phát triển của
tinh thần dân chủ. Quần chúng nhân dân và một bộ phận nho sĩ tiến bộ đã nhận thấy
được sự thối nát của xã hội, ý thức được quyền sống và sức mạnh của nhân dân.
Đây chính là nguồn mạch tinh thần nuôi dưỡng cảm hứng sáng tạo và tư tưởng nhân
văn trong truyện thơ Nôm.
- Công thương nghiệp phát triển cũng là lý do thúc ddaaayr sự
xuất hiện của truyện thơ Nôm. Giai đoạn từ thế kỉ XVI – thế kỉ XVIII, công
thương nghiệp phát triển rộng khắp. Trong thời đại có nhiều biến động về chính
trị - xã hội, những xung đột nội bộ không thể giải quyết, kinh tế hàng hóa phát
triển kéo theo đó là vai trò của đồng tiền, lối sống thị dân đã tác động vào sự
băng hoại ý thức hệ của giai cấp thống trị. Trong truyện thơ Nôm có những chuyện
như: vợ gian thông với đình trưởng để hắn thừa cơ cướp tiền giành dụm của chồng
sao bao nhiêu năm đi làm ăn xa (Tống Trân – Cúc Hoa); một đại quan triều đình
cũng đòi lót tay khi có cấp dưới xuống nhận chức (Nhị độ mai)… chính là biểu hiện
của của sự suy thoái đạo đức trong một xã hội vì đồng tiền.
2.2 Tiền đề văn hóa, văn học
- Sự khởi sắc của nền văn hóa dân tộc
đã tạo đà cho truyện Nôm phát triển, cung cấp cho truyện thơ Nôm nguồn chất liệu
phong phú.
- Đến thế kỉ XVI, XVII cả chữ Nôm và thơ lục bát đều dã có một
quá trình rèn rũa, trưởng thành. Do vậy, nó có đủ khả năng để truyền tải các vấn
đề đời sống xẫ hội và đời sống tâm hồn con người.
CHƯƠNG 2: NGÔN NGỮ NGHỆ
THUẬT TRONG TRUYỆN THƠ NÔM BÌNH DÂN
1. Ngôn ngữ bình dân trong truyện thơ
Nôm bình dân
1.1. Quan niệm về ngôn ngữ
bình dân
- Theo Từ
điển tiếng Việt, Viện ngôn ngữ học, Hoàng Phê (chủ biên): “Bình dân Id. 1. Người dân thường (nói khái quát, thường là trong xã hội
cũ). Sự đối lập giữa quý tộc và bình dân. 2. (kng, dùng phụ sau d). Bình dân học
vụ (nói tắt), giáo viên bình dân, lớp bình dân. It.1. Của tầng lớp bình dân,
dành riêng cho tầng lớp bình dân. Văn học bình dân. Quán cơm bình dân. 2. Bình
thường, giản dị, gần gũi với quần chúng: tác phong bình dân, cách nói năng rất
bình dân” [23 - 68].
- Ngôn ngữ
bình dân có thể được hiểu là ngôn ngữ giản dị, gần với lời ăn tiếng nói hàng
ngày của nhân dân.
Trong văn
học, ngôn ngữ bình dân gồm: Từ thuần Việt, từ láy, thi liệu dân gian…
1.2 Biểu hiện của ngôn ngữ bình dân trong
truyện thơ Nôm bình dân
1.2.1 Từ láy trong truyện
thơ Nôm bình dân
- Theo tác giả Đinh Trọng Lạc: “Từ láy là những từ được cấu tạo bằng cách nhân dôi tiếng gốc theo những
quy tắc nhất định, sao cho quan hệ giữa các tiếng trong từ vừa điệp, vừa đối
hài hòa với nhau về âm và nghĩa, có giá trị tượng trưng hóa”.
Trong tiếng
Việt, từ láy là những từ có giá trị đặc biệt.
Với tính
chất điệp âm thanh (một bộ phận hay toàn bộ từ), từ láy đã tăng cường sắc thái
cho câu thơ tiếng Việt. Cơ sở của sự tăng cường đó chính là khả năng mở rộng
tính chất, phạm vi ý nghĩa hoặc thu hẹp, làm giảm nhẹ tính chất cũng như phạm
vi ý nghĩa cho hình vị cơ sở của từ. Chẳng hạn: “Xanh xanh” có phạm vi biểu vật
hẹp hơn “xanh” nhưng lại có giá trị biểu thái cao hơn.
Từ láy là
loại từ thể hiện một cách rõ nét nhất tính chất đa thanh điệu của ngôn ngữ tiếng
Việt. Nó có khả năng biểu hiện chính xác từng gam màu trong thế giới tự nhiên
cũng như từng sắc thái tinh vi của cảm xúc con người. “Sè sè nắm đất bên đường/ Dàu dàu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh”.
Từ láy
góp phần quan trọng trong việc tạo nhịp điệu, âm thanh hay khái quát hơn là tạo
chất thơ cho câu thơ: “Bước lần theo ngọn
tiểu khê/ Lần theo phong cảnh có bề thanh thanh/ Nao nao dòng nước uốn quanh/
Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang”.
Với những khả năng to lớn như trên mà
trong thơ tiếng Việt, từ láy rất được chú ý sử dụng và mang lại giá trị biểu cảm
cao.
- Viết bằng ngôn ngữ dân tộc, truyện thơ
Nôm bình dân có điều kiện khai thác một cách tối đa giá trị tạo hình, biểu
nghĩa của tiếng Việt, trong đó có việc sử dụng với mật độ khá dày hệ thống từ
láy.
Từ láy được
chú ý sử dụng ngay từ những truyện thơ Nôm xuất hiện đầu tiên và càng về sau, mật
độ sử dụng từ láy càng tăng và trình độ vận dụng ngày càng điêu luyện hơn.
Trong khóa luận tốt nghiệp của một sinh
viên trường Đại học sư phạm Huế, đã có những thống kê về số lượng sử dụng từ
láy trong ba truyện thơ Nôm: Hoàng Trừu,
Tống Trân – Cúc Hoa, Nhị độ mai. Kết quả thu được như sau:
Tên truyện
|
Tổng số câu trích trong tập truyện
|
Số lần sử dụng từ láy
|
Trung bình số lần sử dụng từ láy/số
câu.
|
Hoàng Trừu
|
732
|
186
|
1/3,9
|
Tống Trân – Cúc Hoa
|
1782
|
251
|
1/7,1
|
Nhị độ mai
|
2820
|
523
|
1/5,4
|
* Về
các dạng thức sử dụng từ láy: các từ láy trong ba truyện thơ Nôm kể
trên đa phần được sử dụng theo 2 dạng thức:
- Thứ nhất: Theo quy luật ngữ pháp thông thường:
từ láy đứng sau bổ trợ cho các danh, động, tính từ; tạo thành các cụm danh, động,
tính từ.
Ví dụ:
+ Trong
“Hoàng Trừu”
“Trời xanh nước biếc chỉ đề
Sang Nam Việt thấy tàu bè xôn xao”
“Đồng rằng: Mới lại chuyến này
Ông tôi mười chiếc tàu đầy phe phe”
+ Trong
“Tống Trân – Cúc Hoa”
“Cúc Hoa nước mắt tả tơi hai hàng”
“Cúc Hoa tủi thẹn tần ngần
Cha sao chẳng sợ quỷ thần xét soi”
“Dưới khe nước chảy vang lừng
Đầu non thăm thẳm khơi chừng ghê thay”
+
Trong “Nhị độ mai”
“Quê người phong cảnh đìu hiu
Trăng thanh gió mát dường chiều chuộng
ai”
“Hoàng hôn gác mái chênh vênh
Truyền tìm quán khách bộ hành nghỉ
ngơi”
- Thứ
hai: đưa các từ láy lên phía trước các thực từ mà nó bổ trợ ý nghĩa để hình
thành những đảo ngữ. Và những cụm từ đảo trang này thường mang lại hiệu quả diễn
đạt cao cho câu thơ.
Ví dụ:
+ Trong
“Hoàng Trừu”:
“Mênh
mông giữa chốn hải hà
Lòng trời còn tựa phúc nhà còn may
Cho nên trôi dạt đến đây
Bơ vơ thân gái đắng cay trăm đương”
+ Trong
“Tống Trân – Cúc Hoa”:
“Bừng
bừng vừa mới rạng ngày
Bảng vàng choi chói treo ngay cửa đền”
+ Trong “Nhị độ mai”
“Thênh
thênh nhẹ bước thanh vân
Cành cây dám tưởng bận chân loan
hoàng”
“Nhởn
nhơ hoa cỏ đón chào
Hang men móc vượn, cây xào xạc chim”
“Tung nghe ra giọng đâm hông
Mặt ngăn ngắt tím, mắt sòng sọc trông”
* Về các kiểu từ láy được sử dụng
- Đa phần
các từ láy được sử dụng trong các truyện thơ Nôm bình dân là láy đôi.
Ví dụ:
“Lạ
lùng khôn xiết làm sao
Xăm xăm theo mụ cùng vào tới nơi”
(Hoàng Trừu)
“ Một mình vò võ trang đài
Chàng đi khuya sớm lấy ai hầu chàng”
( Tống Trân – Cúc Hoa)
“Người đâu trong ngọc trắng ngà
Mặt vành vạnh nguyệt, tóc ngà
ngà mây
Lập lòa mớ đính mớ thay,
Sắc xiêm hoa dệt, nét giày phượng
thêu”
(Nhị
độ mai)
Nét
độc đáo trong truyện thơ Nôm bình dân là tạo nên các liên hợp từ láy. Các từ
láy đôi liên tiếp trong một câu thơ làm cho hình ảnh thơ có điểm nhấn rõ ràng,
làm thơ dòng thơ trở nên đầy nhạc tính:
“Nguy nga miếu mạo hẳn hoi,
Một tòa thần tượng trên ngồi nghiễm nhiên”
“Lạ lùng bát ngát hơi dương
Nhìn qua rợn tóc, trông tường sởn gai”
(Nhị độ mai)
- Sử dụng các từ láy tư:
“Trở về tấp tểnh tấp ta
Thày lay mách ả Vân ta
mấy lời”
“Rõ mười còn tưởng mơ
màng
Mừng mừng tủi tủi khóc than một hồi”
(Nhị độ mai)
Theo
tiến trình vận động của thể loại, các liên hợp từ láy và từ láy tư xuất hiện
ngày càng nhiều.
1.2.2 Thi liệu dân gian trong truyện thơ Nôm bình dân
- Thi liệu dân gian được hiểu là những thành ngữ, tục ngữ, ca dao – những sản
phẩm tinh thần của nhân dân lao động.
- Các truyện Nôm “Hoàng Trừu”, “Tống
Trân – Cúc Hoa”, “Nhị độ mai” đều sử dụng đến các thi liệu dân gian, tuy nhiên
mức độ có khác nhau. Trong đó, “Hoàng Trừu” có 24 lượt thành ngữ, 1 câu tục ngữ
được sử dụng, không có ca dao. Ở “Tống Trân – Cúc Hoa” số lượt sử dụng tục ngữ
là 1, thành ngữ là 18. Trong “Nhị độ mai” có 40 lượt thành ngữ, 5 lượt tục ngữ
và 1 câu ca dao được sử dụng. (Theo kết
quả thống kê trong khóa luận “Ngôn ngữ nghệ thuật trong truyện thơ Nôm bình dân
trung đại” – ĐHSP Huế).
Nhìn vào kết quả thống kê trên có thể nhận thấy, thành
ngữ được sử dụng với số lượng cao hơn hẳn so với tục ngữ và ca dao. Lý do của
hiện tượng này nằm ngay ở lợi thế giàu hình ảnh, khả năng tạo nhịp điệu và cấu
trúc khá gọn nhẹ của thành ngữ tiếng Việt. Ca dao và tục ngữ có thể không thua
kém thành ngữ về mức độ hàm xúc, thậm chí còn hơn hẳn thành ngữ ở khả năng gợi
dẫn các phạm vi ý nghĩa, kích thích tư duy của độc giả, nhưng do các câu tục ngữ
và ca dao đều tồn tại ở cấp độ câu, có cấu trúc khép về nghĩa. Còn thành ngữ chỉ
là một thành phần của câu sẵn có , tự nó không diễn tả được một ý trọn vẹn và
cái ý không trọn vẹn của thành ngữ, người sử dụng có thể làm cho nó trở nên trọn
vẹn theo ý muốn chủ quan của mình. Do những đặc điểm đó mà thành ngữ được vận dụng
nhiều hơn cả trong các truyện thơ Nôm bình dân.
- Phương thức sử dụng thi liệu dân
gian:
các tác giả truyện thơ Nôm bình dân đã nỗ lực để vận dụng thi liệu dân gian một
cách linh hoạt nhất sao cho có được những câu thơ sinh động, vừa đẹp lời, vừa đảm
bảo ý. Trong đó, có 2 phương thức cơ bản được các tác giả sử dụng: giữ nguyên
thi liệu gốc và mượn ý thi liệu rồi diễn đạt theo cách khác (bao gồm mượn ý – đảo
lời, mượn ý – rút gọn và mượn ý – tách lời).
+ Giữ nguyên thi liệu gốc:
“Âm
thầm liệu bảy lo ba
Đạo chông cũng nặng, đạo cha cũng đầy”
(Hoàng Trừu)
“Đỏ chen đen tránh là thường
Xin nguôi kẻ khó mà thương kẻ giàu”
(Tống Trân –
Cúc Hoa)
“Mọi bề trong ấm ngoài êm
Chị dù chín suối cũng cam tấc lòng”
“Hiếm hoi chút gái vụng hèn
Nâng khăn sửa túi, xin yên phận nhờ”
(Nhị độ mai)
+ Mượn ý – đảo lời:
“May
rằng áo ấm cơm no
Chẳng ngại sương tuyết chẳng lo cơ hàn”
(Hoàng Trừu)
“Ngỡ là giai lão bách niên
Thung dung đẹp cánh chim uyện trên trời”
(Tống Trân – Cúc Hoa)
“Người tuổi tác, khách cô đơn
Để ai tan nghé, rẽ đàn vì ai?”
+ Mượn ý – rút gọn lời:
“Tấm thân lầm cát bấy chầy
Ví như nước đổ bốc đầy được
không?”
(Hoàng Trừu)
“Phương chi thế sự bây giờ
Dễ dò bụng hiểm khôn lừa mưu gian”
(Nhị độ mai)
+ Mượn ý – tách lời:
“Thuyền
son đỗ chẳng phải đầm
Như đàn cầm gảy tai trâu biết
gì”
(Hoàng Trừu)
1.3 Gía trị của ngôn ngữ bình dân
trong truyện thơ Nôm bình dân
1.3.1 Gía trị của ngôn ngữ bình dân
nhìn từ mối quan hệ với một số yếu tố thuộc hình thức nghệ thuật
Ngôn ngữ bình
dân có vai trò rất lớn trong việc tạo vần, luật, nhịp điệu cho câu thơ.
- Thơ lục bát
Việt Nam rất chú trọng gieo vần. Hầu như mọi yếu tố của hệ thống hình thức đều
có thể ảnh hưởng đến việc gieo vần trong thơ. Từ láy và các thi liệu dân gian
cũng ảnh hưởng đáng kể đến việc gieo vần trong truyện thơ Nôm bình dân.
+ Các truyện
thơ Nôm bình dân viết theo thể lục bát, những từ láy ở vị trí giữa và cuối câu
chiếm tỉ lệ rất cao, đó đều là những vị trí gieo vần (chữ thứ 6 của câu lục vần
với chữ thứ 6 của câu bát). Vì vậy, những từ láy được bố trí ở hai vị trí này
có vai trò rất lớn trong việc gieo vần cho câu thơ.
“Chồng cũ đã đi mười đông
Bây giờ chồng mới tin dùng yêu đương
Đỏ chen đen tránh là thường
Xin nguôi kẻ khó mà thương kẻ giàu
(Tống Trân – Cúc Hoa)
“Nhớ tên hiệu chữ Mai đồng
Đề vào mảnh giấy dán trong nắm hòm
Ra vào giấu giếm , nom dòm
Gọi là tiện chút sớm hôm phụng thờ”
(Nhị độ mai)
+ Về khả năng
gieo vần, thành ngữ - tục ngữ - ca dao trong các truyện thơ Nôm cũng không chịu
thua các từ láy mặc dù để thực hiện được chức năng này, tác giả truyện Nôm gặp
khó khăn hơn nhiều. Nguyên nhân là do dung lượng của các thi liệu dân gian lớn
hơn và chúng có cấu trúc bền vững nên rất khó để sử dụng uyển chuyển , linh hoạt.
Tuy nhiên, các tác giả đã cố gắng vượt qua được những khó khăn đó để cho ra đời
những câu thơ vừa nhuần nhụy, tinh tế về âm hưởng, vừa giàu hình ảnh.
“Thôi thôi đừng quản thiệt hơn
Băn khoăn kén cá phàn nàn chọn canh”
(Nhị độ mai)
- Từ láy, thi
liệu dân gian đều góp phần tạo nên nhịp điệu cho các truyện thơ Nôm bình dân.
+ Tuyệt đại
đa số các thành ngữ, tục ngữ trong truyện thơ Nôm bình dân có cấu tạo 4 chữ cân
xứng. Các tác giả truyện Nôm bình dân đã tận dụng triệt để cấu trúc cân xứng đó
của thành ngữ, tục ngữ vào việc tạo nhịp cho câu thơ.
“Âm thầm /liệu bảy lo ba” (Hoàng Trừu)
“Vinh quy bái tổ/tên chàng Tống Trân”
(Tống
Trân – Cúc Hoa)
“Ông rằng/nhục nhớn nan tri”
(Nhị
độ mai)
=> Trong những
câu thơ này, các thành ngữ, tục ngữ góp phần tạo nhịp 4 cho câu thơ lục bát.
Hay tạo ra nhịp
2/2/2: “Trứng rồng/lại nở /ra rồng”
(Hoàng Trừu)
+ Các từ láy được
sử dụng trong các truyện thơ Nôm bình dân có khả năng tăng cường ngữ điệu cho
nhịp thơ. Đặc biệt là các từ láy liên hoàn được vận dụng một cách khéo léo, khiến
cho câu thơ như những nốt nhạc lên xuống trầm bổng:
“Buồn thì bà quận bạn cùng
Giữ gìn/ tắm táp/ bé bồng/ tương liên”
(Hoàng
Trừu)
“Thẹn thùng/ lững thững/ chân dời
Nàng e còn đứng, chàng coi đã tường”
(Nhị
độ mai)
Như vậy, nhìn
chung trong truyện thơ Nôm bình dân, sự tác động của ngôn ngữ bình dân tới một
số phương diện thuộc hình thức nghệ thuật là khá rõ, từ đó chúng ta có được những
câu thơ hay, giàu sắc thái biểu cảm.
1.3.2 Gía trị của ngôn
ngữ bình dân nhìn từ khả năng tạo nghĩa trong tác phẩm
Ngôn ngữ bình dân không chỉ góp phầm
làm đẹp cho hình thức mà còn góp phần biểu hiện nội dung tư tưởng của tác phẩm.
Tác giả truyện thơ Nôm bình dân đã chứng minh cho những khả năng thuộc về bản
chất của một bộ phận từ ngữ tiếng Việt trong việc thể hiện các nội dung lớn của
đời sống xã hội cũng như nội tâm con người. Cụ thể: từ láy có khả năng miêu tả,
qua đó bộc lộ tâm trạng nhân vật; thành ngữ - tục ngữ - ca dao có khả năng thể
hiện nội dung suy tư thế sự và triết lí.
* Từ láy góp phần thể hiện nội dung miêu tả
- Nhờ các từ láy, tác giả truyện thơ
Nôm đã dựng nên những bức tranh thiên nhiên sinh động, qua đó thể hiện thái độ
của người kể chuyện và nội tâm nhân vật.
Trong “Nhị độ
mai” khung cảnh núi non trên đường Hạnh Nguyên đi cống Hồ được miêu tả hết sức
sinh động nhờ các từ “mờ mịt”, “chon
von”, “cheo leo”, “ngổn ngang”. Đó vừa là bức tranh ngoại cảnh vừa là
bức tranh tâm cảnh:
“Hỏi tên là Lạc Nhạn đài
Trùm mây mờ mịt ngất trời chon von
…
Cheo leo sườn núi trông ngang
Khe kia suối nọ ngổn ngang mấy trùng”
(Nhị
độ mai)
Trong “Hoàng Trừu”, “Tống Trân – Cúc
Hoa” cũng có rất nhiều đoạn miêu tả cảnh thiên nhiên như vậy.
- Nhiều khi chỉ bằng một câu với sự góp công của từ láy, tác
giả đã lột trần được bản chất của nhân vật:
“Tung nghe ra giọng đâm
hông
Mặt ngăn ngắt tím, mắt
sòng sọc trông”
(Nhị
độ mai)
Tác giả Nhị độ
mai đã lợi dụng trọng âm của từ láy đôi “ngăn
ngắt” và “sòng sọc” để tăng cường độ nhấn và bộc lộ thái độ đánh giá. Trọng
âm của “ngăn ngắt” và “sòng sọc” đều nằm ở hai âm phía sau.
Các chữ “ngắt” và “sọc” cùng là âm trắc, nhờ đó, mức độ sắc thái và âm hưởng của
từ được nâng cao hơn rõ rệt so với các từ gần nghĩa như: tím, tim tím, chằm chằm,
lăm lăm,... Hơn nữa, khi đứng trước các thực từ mà nó tham gia bổ trợ nghĩa
(tính từ “tím”, động từ “trông”), “ngăn
ngắt”, “sòng sọc” đã làm cho đối tượng miêu tả (khuôn mặt và ánh mắt kẻ
gian thần) được khắc sâu với những nét rất đặc trưng. Vì vậy, các từ láy âm: “ngăn ngắt”, “sòng sọc” đã giúp tác giả
“chộp” được thái độ của Hoàng Tung trong một khoảnh khắc khi Mai Bá Cao dũng cảm
vạch mặt y, qua đó người đọc thấy được lòng hãi sợ của một kẻ chuyên gây điều
ác.
*Thi liệu dân gian góp
phần thể hiện nội dung thế sự
Do đặc trưng của
mình, các thi liệu dân gian khi đi vào truyện thơ Nôm bình dân đã thể hiện khá
sâu sắc những trăn trở, suy tư của người bình dân trước các vấn đề cuộc sống,
trọng tâm là vấn đề tình nghĩa, đạo đức và lẽ công bằng.
Các câu thành
ngữ: “ngồi ăn núi lở”trong Truyện “Tống
Trân – Cúc Hoa” là những kinh nghiệm, suy tư và cũng là lời răn về giá trị của
lao động.
“Bán vàng nào có là bao
Ăn không núi cũng ngày hao một ngày”
Các câu thành
ngữ “nửa tấc tới trời”, “lòng cá dạ chim”
trong “Nhị độ mai” lại cho ta thấy
những suy tư về con người của các tác giả truyện Nôm.
Suy tư thế sự,
đúc rút kinh nghiệm là những nội dung đặc trưng của thi liệu dân gian, đặc biệt
là tục ngữ. Khi tồn tại trong Truyện thơ Nôm bình dân, những nội dung này được
phát huy, đem lại những câu thơ hàm xúc, giàu hình tượng, giúp tác giả nâng cao
hiệu quả diễn đạt.
2. Ngôn ngữ bác học trong truyện thơ Nôm bình dân
2.1 Quan niệm về ngôn ngữ bác học
- “Bác học I. Người học rộng, hiểu biết
sâu về một hoặc nhiều ngành khoa học. II. Theo lối của nhà bác học, có tính chất
khó hiểu, không bình dân.”
- Ngôn ngữ bác
học có thể được hiểu là thứ ngôn ngữ trang trọng, tao nhã, có tính chất khó hiểu.
Ngôn ngữ bác học trong văn học bao gồm: các từ Hán Việt, hệ thống các điển
tích, điển cố…
2.2 Biểu hiện của ngôn
ngữ bác học trong truyện Nôm bình dân
2.2.1 Điển tích, điển cố
trong truyện thơ Nôm bình dân
- Dùng điển là một đặc trưng nổi bật
của văn học trung đại Việt Nam. Cội nguồn của nó là tâm lý sùng cổ, trọng cổ của
người xưa và lối học từ chương gắn liền với kinh sử, tử, tập ở thời trung đại.
Những điển tích, điển cổ được sử dụng
trong các sáng tác thời trung đại đa phần đều lầy từ kinh, sách Trung Quốc. Tuy
nhiên, cùng với sự phát triển của thể loại và ý thức về ngôn ngữ dân tộc, các
tác giả thời trung đại, trong đó có tác giả thơ Nôm bình dân đã tìm cách “Việt
hóa” các điển có nguồn gốc Trung Hoa bên cạnh việc sử dụng cả những điển có
trong sách vở xưa, trong các câu chuyện được lưu truyền của dân tộc.
Số lần sử dụng điển trong các truyện
thơ Nôm được khảo sát như sau: “Hoàng Trừu”: 12 lần; “Tống Trân – Cúc Hoa”: 22
lần; “Nhị độ mai”: 85 lần. (Theo kết quả
khảo sát của khóa luận “Ngôn ngữ nghệ thuật trong truyện Nôm bình dân trung đại”).
-
Cách
thức sử dụng điển tích điển cố:
+ Những
điển tích, điển cố được các tác giả giữ nguyên, không có cải biên gì.
Ví dụ: Lưu lang, Châu Trần (Hoàng Trừu), Lã hậu, Hán hoàng (Tống Trân
– Cúc Hoa),
“Lưu
lang còn được bèn vời
Huống chi người cũng là người trần
gian”
(Hoàng
Trừu)
Lưu lang : chàng Lưu , người Trung Quốc ngày
xưa đi lấy thuốc lạc vào động thiên thai gặp tiên. Ý nói người ở trần cũng gặp
được tiên.
“Kìa như Lã Hậu đồn rằng
Hán Hoàng mới thác đã lòng riêng tây”
(Tống Trân – Cúc Hoa)
Lã Hậu – vợ Lưu Bang, tư tình với nhiều người.
Hán
Hoàng – Hán Cao Tổ. Ý nói những ngường phụ nữ không chung thủy.
+ Những điển được Việt hóa.
Câu thơ:
“Hiếm hoi mới được mộng xà
Vân Tiên một gái mặt hoa khuynh thành
(Nhị độ mai)
Lấy ý từ tích của Trung Quốc, một
trong Kinh Thi, nhắc tới chuyện mơ thấy rắn - điềm sinh con gái: “Cát mộng duy hà? Duy hùng, duy bi nam tử
chi tường” (Xem chiêm bao lành dữ thế nào? Chiêm bao thấy gấu và rắn. Quan
đoán mộng trả lời: chiêm bao thấy gấu là
điềm sinh con trai, chiêm thấy rắn là sinh con gái).
Tóm lại, dùng điển là việc khá phổ biến
trong các truyện thơ Nôm bình dân tuy mật độ không dày. Hầu hết các điển được
tác giả lựa chọn sử dụng đều không quá xa lạ với người đọc, trong đó có những
điển gần gũi, quen thuộc ngay cả với lớp độc giả dân chúng. Bằng những cách
khác nhau, tác giả truyện thơ Nôm bình dân đã nỗ lực Việt hóa điển tích, điển cố
Hán trong các sáng tác của mình như một minh chứng theo ý thức dân tộc trong hoạt
động sáng tạo ngôn từ.
2.2.2 Từ Hán Việt trong truyện thơ
Nôm bình dân
Trong truyện thơ Nôm bình dân, các từ
Hán Việt thường được dùng để chỉ các thuật ngữ biểu hiện khái niệm của Nho giáo:
đạo, nhân, nghĩa, lễ, trung, hiếu, cương thường…; biểu đạt các khái niệm thuộc
lĩnh vực quan trường, thi cử: tam khôi, bảng rồng, mặt rồng, roi đồng, bộ hình,
trạng nguyên, bảng nhãn, sĩ tử, tứ thư, thi đình, tuần phủ, vạn tuế, nhất phẩm,
khâm thiên giám, bách quan văn võ, thiên nhau, chiếu, chỉ, bảng rồng, phẩm, Đô
ngự sử, Thái bảo, tam cấp, phủ nha, ngự tửu, công pháp, ba tòa, ngọ môn, án tấu...
“Vậy
nên mượn mụ đưa đường
Vào xem có xứng cương thường sẽ
hay”
“Trượng phu thật đấng trung nghì
Chẳng như ăn xổi ở thì mà lo”
(Hoàng Trừu)
“Đố
ai biết mặt khôi hoa
Có hai chị gái biết là tiên cung”
“Nàng ấy có nghĩa thay là,
Nuôi chồng đi học đăng khoa bảng rồng”
(Tống Trân – Cúc Hoa)
2.2.3 Thành ngữ gốc Hán trong truyện thơ Nôm bình dân
Trong
truyện thơ Nôm bình dân, thành ngữ gốc Hán được sử dụng không nhiều: “Hoàng Trừu”:
không có, “Tống Trân – Cúc Hoa”: 3 lần, “Nhị Độ Mai”: 5 lần
Trong 8 lần sử
dụng, có tới 5 lần thành ngữ được dùng theo lối biến cách, 2 lần giữ nguyên.
-
5
lần biến cách thành ngữ gốc Hán:
Thành ngữ biến cách
|
Thành ngữ gốc
|
Phương pháp biến cách
|
1. “Tới kỳ mãn nguyệt gặp đầu thai
sinh”
( Tống Trân – Cúc Hoa)
|
Mãn nguyệt khai hoa
|
Tách + dịch
|
2. “Giai lão bách niên”
(Tống Trân – Cúc Hoa)
|
Bách niên giai lão
|
Đảo trật tự
|
3. “Vũ giá đằng vân”
(Nhị độ mai)
|
Đằng vân vũ giã
|
Đảo trật tự
|
4. “Thanh ứng khí cầu”
(Nhị độ mai)
|
Đồng thanh tương ứng đồng khí tương
cầu
|
Rút gọn
|
5. “Họa chí vô đơn”
(Nhị độ mai)
|
Họa vô đơn chí
|
Đảo trật tự
|
- 3 lần sử dụng thành ngữ gốc Hán
nguyên gốc:
+ “Đồng tịch đồng sàng” (TT-CH)
+ “Nhục nhỡn nan tri” (NĐM)
+ “Đằng vân giá vũ” (NĐM)
(Số liệu thống
kê được lấy từ khóa luận “Ngôn ngữ nghệ
thuật trong truyện thơ Nôm bình dân trung đại)
Tóm lại,
thành ngữ gốc Hán trong truyện thơ Nôm bình dân ít được sử dụng. Đa phần chúng
được biến cách bằng các phương thức khác nhau để thể hiện tốt nhất dụng ý của
tác giả. Nhìn vào lịch sử văn học và trong tương quan so sánh với thể loại
khác, chúng ta thấy, việc ít vận dụng thành ngữ gốc Hán trong các truyện thơ
Nôm bình dân có nguyên nhân từ đặc điểm lưu truyền, đối tượng thưởng thức và
“tính khách quan của ngôn ngữ thể loại”, trong đó, nguyên nhân sau đóng vai trò
trọng yếu.
2.3 Gía trị của ngôn ngữ bác học trong truyện
thơ Nôm bình dân
2.3.1 Gía trị
của ngôn ngữ bác học bình nhìn từ mối quan hệ với các yếu tố thuộc hình thức
nghệ thuật
* Góp phần tạo
vần, nhịp và cấu trúc câu thơ
- Các điển
tích điển cố giữ vai trò tạo nhịp 4 cho câu thơ:
+ “Ngựa Hồ chim Việt”
trong câu “Ngựa Hồ chim Việt/luống đau phiền”
+ “Vũ
giá vân đằng” trong câu: “Giữa trời/
vũ giá vân đằng/ đem đi”
+ “Thanh
ứng khí cầu”, trong câu: “Than rằng/
“thanh ứng khí cầu”
+ “Họa
chí vô đơn”, trong câu: “Lời rằng/ họa chí vô đơn/ cũng thường”
+ “Nhục
nhỡn nan tri” trong câu: “Ông rằng/
nhục nhỡn nan tri”
+ “Đằng
vân giá vũ”, trong câu: “Đằng vân giá
vũ/ cũng ghê”
+ “Đồng
tịch đồng sàng” trong câu: “Vợ chồng/
đồng tịch đồng sàng”
- Các điển
tích điển cố có tác dụng tạo vần:
+ “Thanh ứng khí cầu”, gieo vần “âu” với câu bát trên và
câu bát dưới:
“Như khêu tấm dạ trung nghì
Dạy đem nghiên bút thư đề mấy câu
Than rằng: Thanh ứng khí cầu
Người kim cổ bụng trước sau một đường”
(Nhị Độ Mai)
* Góp phần tạo tính ước
lệ cho các hình ảnh thơ
Xây dựng tính ước
lệ là khả năng lớn nhất và đặc trưng nhất của điển tích, điển cố, xét trong mối
quan hệ với hình thức nghệ thuật, câu thơ, bài thơ.
Mọi hình ảnh
trong câu thơ Nôm bình dân được hình thành do điển đều mang tính ước lệ. Các
hình ảnh: Nàng Châu ả Hằng, Châu Trần,
cung trăng Quảng Hàn, Lưu Lang , Ải Tần…( Hoàng Trừu) , trong Tống Trần –
Cúc Hoa: hội rồng mây, Lã Hậu, Hán Hoàng,
Kẻ Tấn người Tần, Nguyệt lão… Vẩy rồng, huyên đình, Tô Quân, Lạc Nhạn Đài,
thung đường, đông sàng, bẻ quế, tung mây…trong (Nhị độ mai) đều mang tính ước
lệ. Những hình ảnh như trên đã giúp câu
thơ lục bát trở nên ngắn gọn và súc tích hơn một cách đáng kể.
2.3.2 Gía trị của ngôn
ngữ bác học nhìn từ khả năng biểu đạt nội dung tư tưởng.
* Góp phần thể hiện nội
dung ngợi ca, khẳng định
Điều thú vị ở các thành ngữ
gốc Hán trong truyện thơ Nôm bình dân là cả 8 lần xuất hiện đều dành
để nói các nhân vật chính diện. Có khi nó nằm trong lời nhân vật
như: “nhục nhỡn nạn tri”, “thanh ứng
khí cầu”, “đồng tịch đồng sàng”, “giai lão bách niên”, “Ngựa Hồ chim
Việt”, cũng có khi nó là lời của người kể chuyện như: “mãn nguyệt khai hoa”, “vũ giá đằng
vân”, “đằng vần giá vũ” , “họa chí vô đơn”.
Ví như hai lần tác giả dùng
thành ngữ gốc Hán để khẳng định tình nghĩa vợ chồng đều được đặt
trong lời nhân vật Cúc Hoa ở một hoàn cảnh đặc biệt – Tống Trân,
chồng nàng, phải đi sứ Tần:
“Vợ chồng đồng tịch đồng sàng
Anh giã ơn nàng nuôi mẹ anh đi”
Đó là những lời trân trọng, tha
thiết của người vợ sau bao năm nuôi mẹ đợi chồng “vinh qui bái tổ” nay
buộc phải chấp nhận chia ly để chồng đi sứ. Ở đoạn khác, câu 1083,
cũng là lời Cúc Hoa than thở: “Ngỡ
là giai bão bách niên”. Trước lúc lên kiệu hoa trong một cuộc ép
duyên trắng trợn của người cha, Cúc Hoa lần giở 3 bộ quần áo, những
kỉ vật của 2 vợ chồng từ thưở hàn vi, ra xem (lúc này Tống Trân đang
ở bên nước Tần). Nàng không khỏi đau xót cho tình cảnh vợ chồng li
tán. Thành ngữ “giai lão bách niên”
(hay bách niên giai lão) là lời chúc phúc thường gặp trong các đám
cưới và cũng là ước mong của cổ dâu, chú rể, ngờ đâu, lúc này lại
nằm trong lời than thở cho hạnh phúc không trọn! Cả “đồng tịch đồng sàng” lẫn “giai
lão bách niên” đều được sử dụng trong những bối cảnh đặc biệt
đã góp phần thể hiện và khẳng định tấm lòng chung thủy của nhân
vật Cúc Hoa.
* Góp phần thể hiện nội
dung đạo đức, quan niệm nhân sinh
Sự có mặt khá dày các từ Hán Việt biểu
đạt khái niệm tư tưởng, tôn giáo, quan phương trong truyện thơ Nôm bình dân đã
cho thấy khá rõ dụng ý của tác giả trong việc thể hiện các vấn đề nội dung - tư
tưởng. Với đặc trưng và khả năng của mình, lớp từ này góp phần đắc lực trong việc
nêu cao nội dung đạo đức, bộc lộ quan niệm của tác giả về nhân sinh và cuộc sống.
Nhân, lễ, nghĩa, trung, hiếu, tiết là
những nội dung lớn trong các truyện thơ Nôm bình dân. Để thể hiện nội dung này,
tác giả đã xây dựng nên những hình tượng nhân vật tiêu biểu cho các phạm trù đạo
đức đó, tiêu biểu cho lòng nhân (bao gồm cả lòng “nhân” theo quan niệm Nho giáo
và lòng nhân đạo trong quan niệm nhân dân) có: Sơn tinh (Tống Trân - Cúc Hoa), Mai
Bá Cao, Châu Bá Phù, Trần Đông Sơ (Nhị độ mai); tiêu biểu cho chữ nghĩa có Hỉ Đồng
gia đình ngư dân, Phùng Lạc Thiện, Mai Bạch, Mai Lương Ngọc (Nhị độ mai), tiêu
biểu cho chữ trung có: Tống Trân (Tống Trân - Cúc Hoa), Hoàng Trừu (Hoàng Trừu),
Mai Bá Cao (Nhị độ mai); chữ hiếu có Mai Lương Ngọc, Hạnh Nguyên (Nhị độ mai);
Cúc Hoa (Tống Trân - Cúc Hoa); chữ tiết có Cúc Hoa (Tống Trân - Cúc Hoa), công
chúa Nam Việt (Hoàng Trừu), Hạnh Nguyên (Nhị độ mai). Những con người đó dù có ở
địa vị nào: giàu sang, nghèo hèn ra sao cũng không bao giờ thay đổi bản chất.
Đó là đối tượng của sự khẳng định, ngợi ca, là lực lượng nêu cao cái tốt đẹp
trong cuộc sống, đấu tranh chống lại bọn tà gian, hiểm ác, không có tính người,
bảo vệ đạo đức xã hội.
CHƯƠNG III: KẾT LUẬN
1. Qua sự phân tích trên ta thấy,
ngôn ngữ trong truyện thơ Nôm bình dân bao gồm cả ngôn ngữ bình dân và ngôn ngữ
bác học. Sự kết hợp củ hai loại ngôn ngữ này trong tác phẩm truyện thơ Nôm bình
dân đã mang lại hiệu quả nghệ thuật cao.
2. Mặc dù vậy, trong truyện Nôm bình
dân, ngôn ngữ chưa được trau chuốt, chưa được gia công nghệ thuật nhiều. Từ ngữ
sử dụng không chính xác, không súc tích, ít có hình ảnh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Đỗ Hữu Châu, Từ vựng ngữ nghĩa tiếng
Việt, Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội.
2.
Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (2006), Từ điển thuật ngữ văn học, Nhà xuất bản
Giáo dục, Hà Nội
3.
Nguyễn Lộc (1999), Văn học Việt
Nam, nửa cuối thế kỷ XVIII đến hết thế kỷ XIX, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội
4.
Phan Ngọc (1985), Tìm hiểu phong
cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều, Viện Đông Nam Á, Nhà xuất bản Khoa học xã
hội, Hà Nội
5.
Hoàng Phê (chủ biên) (2001), Từ điển
tiếng Việt, Viện ngôn ngữ học, Nhà xuất bản Đà Nẵng, Trung tâm Từ điển học
Hà Nội – Đà Nẵng
6.
Lê Văn Quán (chủ biên) (1993), Tổng
tập Văn học Việt Nam, tập 14 A, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội
7.
Lã Nhâm Thìn (chủ biên) (2015), Giáo
trình văn học trung đại Việt Nam, NXB GD.
8.
Khóa luận, Ngôn ngữ nghệ thuật
trong truyện thơ Nôm bình dân trung đại. ĐHSP Huế.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét