Thứ Ba, 11 tháng 10, 2016

Sự giao thoa, sự kết hợp của khuynh hướng lãng mạn và hiện thực trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam.

Đề bài: Vấn đề phân loại văn học Việt Nam từ 1900 – 1945 và sự giao thoa của các khuynh hướng văn học.
Vận dụng vào việc phân tích sự giao thoa, sự kết hợp của khuynh hướng lãng mạn và hiện thực trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam.
BÀI LÀM
Văn học Việt Nam từ 1900 – 1945 tuy chỉ diễn ra không đầy nửa thế kỉ nhưng có vị trí rất quan trọng trong tiến trình phát triển của lịch sử văn học Việt Nam. Đã có nhiều nhà nghiên cứu hướng sự quan tâm của mình tới giai đoạn văn học này. Tuy nhiên, có rất nhiều vấn đề vẫn chưa thể đi đến thống nhất. Một trong những vấn đề vẫn còn gây nhiều tranh cãi đó sự phân loại văn học.
Phân loại là phân chia đối tượng thành nhiều mảng để tìm hiểu. Khi tiến hành phân loại văn học Việt Nam giai đoạn 1900–1945, các nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều ý kiến khác nhau. Sự khác nhau này bắt nguồn từ sự khác nhau về tiêu chí phân loại:
* Từ 1955 – 1980: các nhà nghiên cứu đã đưa ra thuật ngữ “dòng văn học”. Theo đó văn học Việt Nam thời kì 1900–1945 có sự song hành chuyển hóa của ba dòng văn học: dòng văn học hiện thực, dòng văn học lãng mạn và dòng văn học cách mạng. Thuật ngữ này có ưu điểm là từ nôm, dễ hình dung nhưng “dòng” lại là một khái niệm mơ hồ. “Dòng” là khái niệm chỉ đội ngũ, khuynh hướng hay trào lưu... là không rõ.
* Từ những năm 1980 trở đi các nhà nghiên cứu sử dụng khái niệm “khuynh hướng”. Tuy nhiên, nó vẫn không đủ để nhận diện toàn bộ văn học mà phải phối hợp thêm với một tiêu chí nữa, đó là tiêu chí “bộ phận”. Các nhà nghiên cứu đã dựa vào hai tiêu chí bộ phận: dựa vào sự lưu hành và dựa vào tính hợp pháp để phân loại văn học thời kì này. Theo đó, toàn bộ văn học 1900 – 1945 sẽ được phân chia thành văn học hợp pháp (công khai) và văn học bất hợp pháp (bí mật). Thuộc về văn học công khai là văn học lãng mạn và hiện thực, thuộc về văn học bí mật là văn học cách mạng.
* Cách phân loại của đại học sư phạm: xem xét văn học như một hoạt động của mĩ học, xem văn học như là ứng xử thẩm mĩ của con người trước thực tại. Các khuynh hướng văn học xét đến cùng là khuynh hướng của những ứng xử thẩm mĩ với thực tại. Theo đó, ba khuynh hướng trong văn học Việt Nam 1900 – 1945 bao gồm: khuynh hướng lãng mạn, khuynh hướng hiện thực và khuynh hướng cách mạng. Những khuynh hướng ấy không tách rời nhau mà luôn song hành, chuyển hóa lẫn nhau để tạo nên một bức tranh văn học sống động.
Để làm rõ hơn vấn đề này, người viết sẽ đi sâu phân tích sự giao thoa, kết hợp của khuynh hướng lãng mạn và khuynh hướng hiện thực trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của nhà văn Thạch Lam.
Giữa văn học hiện thực và văn học lãng mạn có những đặc trưng riêng giúp ta có thể phân biệt tác phẩm thuộc khuynh hướng văn học này hay khuynh hướng văn học kia.
Về tư duy nghệ thuật, văn học lãng mạn như chiếc xe trở đầy cảm xúc. Trước hiện thực, nhà văn lãng mạn không phân tích hiện thực mà chủ yếu là bộc lộ cái tôi, cái thế giới chủ quan. Trong khi đó, thao tác phân tích thực tại lại là thao tác cơ bản của tư duy hiện thực. Để có cái nhìn khách quan, để tỉnh táo quan sát và nắm bắt bản chất hiện thực, nhà văn hiện thực phải hạn chế tình cảm, cảm xúc đến mức tối đa.
Văn học lãng mạn có ba đề tài cơ bản là thiên nhiên, tình yêu, tôn giáo. Văn học hiện thực lại quan tâm đến xã hội, môi trường xã hội, đặc biệt là không gian sinh tồn của con người. Vì thế, nó quan tâm đến khắc họa tính cách xã hội, hiện trạng xã hội...
Về thể loại, do gốc của văn học lãng mạn là cảm xúc cá nhân, là cái tôi nội cảm nên nó hay tìm đến các thể loại trữ tình như thơ, tùy bút, tự truyện, truyện ngắn trữ tình. Còn gốc của văn học hiện thực là xã hội, coi trọng khách quan nên thể loại phổ biến của nó là phóng sự, truyện ngắn trào phúng, tiểu thuyết...
Có thể nói, trên đây là những phương diện cơ bản để soi chiếu, để phân định khuynh hướng văn học hiện thực và lãng mạn. Song trong thực tế sáng tác, hai khuynh hướng này không phân định một cách rạch ròi mà đôi khi có sự chuyển hóa và các nhà văn luôn có ý thức phát huy những tinh hoa của những tiếng nói văn học khác để tự làm giàu khả năng nghệ thuật của mình.
Soi rọi những lý thuyết về hiện thực và lãng mạn vào sáng tác của Thạch Lam, ta thấy sự tồn tại của cả hai tính chất. Không những thế, sự đan xen giữa hiện thực và lãng mạn còn xuất hiện ở ngay trong một tác phẩm. Chính điều này đã làm nên nét đặc sắc trong phong cách nghệ thuật của Thạch Lam.
Thạch Lam trước hết là một nhà văn lãng mạn. Yếu tố lãng mạn thấm đượm trong những trang viết của ông. Ra đời trong không khí sôi động của các trào lưu văn học giai đoạn 1930 – 1945, “Hai đứa trẻ” là một truyện ngắn hay, tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Thạch Lam. Thạch Lam đã tìm được lối biểu hiện riêng, tạo ra được sức lôi cuốn, ám ảnh đặc biệt. Người đọc như bị hút ngay vào thiên truyện trước hết bởi những câu văn mở đầu miêu tả khung cảnh buổi chiều quê đầy thơ mộng, mang đậm dấu ấn của làng quê đất Việt: “Chiều, chiều rồi, một buổi chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài ruộng theo gió nhẹ đưa vào...”. Có buổi chiều nào êm như ru trong cái nhìn của Nam Cao, Vũ Trọng Phụng? Chỉ có tâm hồn lãng mạn Thạch Lam mới có cái nhìn mượt mà và đậm chất thơ đến thế. Qua ngòi bút của ông, phố huyện tuy nghèo nhưng vẫn đáng yêu. Buổi chiều ở phố huyện là buổi chiều hiu hắt, man mác buồn nhưng cũng không kém phần thi vị với bản hòa âm thôn dã tạo nên từ những âm thanh quen thuộc của tiếng trống, tiếng ếch, tiếng muỗi... những hình ảnh, màu sắc đậm chất hội họa phương Đông: hình ảnh phương tây đỏ rực như lửa cháy, áng mây hồng, dãy tre làng đen lại. Bức tranh thiên nhiên được miêu tả bằng những câu văn nhẹ nhàng, với nhịp điệu du dương như ru hồn người, ru hồn hai đứa trẻ vào một thế giới thơ mộng. Phố huyện dưới ngòi bút của Thạch Lam buồn nhưng không thê thảm, lạng lẽ nhưng vẫn ẩn một nét đẹp dân dã, mang cái hồn của quê hương Việt Nam. Có thể nói, Thạch Lam đã chắt chiu những cái đẹp tiềm tàng ngay ở trong cuộc sống giản dị quanh mình.
Yếu tố lãng mạn của truyện còn là cái nhìn duy cảm trong nhân vật, là dòng tâm trạng của con người. Đây là trục cảm trung tâm của truyện, mà trước hết là tâm trạng của hai đứa trẻ trước cảnh chiều tàn. Liên và An là những đứa trẻ từng sống ở Hà Nội, nay theo mẹ về vùng quê hẻo lánh. Liên ngồi trong không gian bóng tối để những nỗi buồn quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ. Liên cảm nhận được cái yên lặng của khung cảnh chiều quê quen thuộc. Đó là tiếng trống thu không, là phương tây đỏ rực...gợi lên cái nhịp thời gian đang trôi, gieo vào lòng người một sự nuối tiếc mơ hồ, có cái gì đó khó nắm bắt. Cùng với cảm giác về thời gian còn là âm thanh tiếng ếch nhái văng vẳng ngoài đồng ruộng, tiếng muỗi vo ve, mùi âm ẩm và mùi cát bụi quen thuộc....Đó là những xúc cảm rất quen thuộc, thể hiện sự gắn bó với quê hương. Cảnh chợ tàn “người về hết và tiếng ồn ào cũng mất...” càng khiến lòng Liên thấm đẫm nỗi buồn về cuộc sống xác xơ, tiêu điều, đang đi vào chiều tàn lụi. Từ quán hàng chật hẹp nhỏ bé của mình, Liển hướng tầm mắt nhìn ra khung cảnh xung quanh và càng thêm xót thương cho những kiếp người nhỏ bé mong manh. Liên thương xót cho những đứa trẻ nghèo phải nhặt nhạnh tất cả những thứ còn xót lại của một phiên chợ tàn. Liên chia sẻ với mẹ con chị Tí bằng sự thấu hiểu về cuộc sống tẻ nhạt, quanh quẩn của mẹ con chị. Liên còn chia sẻ với sự ế ẩm của gánh phở bác Siêu...Đó là cảm nhận về sự mong manh của kiếp nười trong tâm hồn của một cô bé. Không những vậy Liên còn cảm nhận được cái tù túng trong cuộc sống của chính bản thân mình: giam hãm trong gian hàng nhỏ, lắm muỗi...Trong tâm trạng buồn, Liên hoài niệm về quá khứ và khao khát, hi vọng đợi chờ: đó là hi vọng chờ đợi một chuyến tàu đêm đi qua. Liên chờ tàu không phải để bán hàng mà là nhu cầu tinh thần hàng đêm. Bởi vậy, An dù buồn ngủ díu cả mắt vẫn cố dặn chị “tàu đến chị đánh thức em dậy nhé”. Hai chị em Liên chờ đợi tàu trong tâm trạng háo hức, bồi hồi như chờ đợi phút giao thừa thiêng liêng. Đoàn tàu đến trong sự mong chờ của cả hai chị em Liên. Liên và An hướng cả hồn mình vào đoàn tàu “tiếng còi đã rít lên và tàu rầm rộ đi tới”. Con tàu đã mang đến một thế giới khác đi qua, một thế giới rực rỡ, vui vẻ và huyên náo – một thế giới khác hẳn với sự nghèo khổ hàng ngày. Đoàn tàu không làm thay đổi cuộc sống nơi phố huyện nhưng sự xuất hiện của nó đủ để lại niềm khao khát cho con người nơi đây.
Chất lãng mạn còn toát lên từ những câu văn nhẹ nhàng như giăng mắc vào lòng người nỗi thương cảm, ngậm ngùi, xót xa cho những kiếp sống khắc khoải.
Nhưng không dừng lại ở chất lãng mạn, đối với Thạch Lam “văn chương không phải đem đến cho người đọc sự thoát li hay sự quên, trái lại văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, làm cho lòng người được thêm trong sạch và phong phú”. Chính vì vậy mà yếu tố lãng mạn và hiện thực đã hòa quyện nhau trong từng trang viết của Thạch Lam.
Chất hiện thực thể hiện rõ ở bức tranh phố huyện nghèo nàn với những cảnh đời mòn mỏi, quẩn quanh, bế tắc. Đó là cảnh một phiên chợ vãn ở miền quê được tác giả miêu tả chân thực đến từng chi tiết. Ống kính của nhà văn đã nhìn lại trên mặt đất để thấy: rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn. Đó là cảnh sống nơi phố huyện. Không ồn ào, không to tát, chỉ bằng những mảnh đời nhỏ bé như những lát cắt của cuộc sống, Thạch Lam đã tái hiện chân thực cảnh sống quẩn quanh, nhàm tẻ nơi phố huyện nghèo. Đó là gia đình chị Tí, ngày mò cua bắt ốc, tối dọn hàng. Dẫu chẳng kiếm được là bao nhưng ngày nào chị cũng dọn từ chập tối cho đến đêm. Cả gia tài của chị chỉ là một chõng hàng. Đây chính là một điển hình cho cuộc sống lay lắt, ngoi ngóp nơi phố huyện. Đó chỉ là sự cầm chừng, sự tồn tại trong vô vọng, không phải là sự sống thực sự. Hay là bà Thi điên với dáng đi lảo đảo và tiếng cười khanh khách tan vào trong bóng đêm. Là bác Siêu với gánh phở của mình hi vọng sẽ kiếm được chút gì để tồn tại, để cầm cự với sự sống. Là gia đình bác Xẩm dùng lời ca tiếng hát của mình để kiếm sống. Nhưng ở cái nơi ăn còn chẳng có thì người dân làm gì có thời gian để thưởng thức âm nhạc. Hay đó là hai đứa trẻ - những mảnh đời đáng thương nhất... Chừng ấy mảnh đời, kiếp người đã làm sống dậy hiện thực xã hội Việt Nam thời Pháp thuộc. Một xã hội sa sút, tiêu điều, trì trệ, một xã hội đang “nổi váng lên”. Đó là xã hội của những hình nhân biết cử động như trong thiên truyện “Tỏa nhị Kiều” của Xuân Diệu. Họ thực sự là những con người sống một cuộc đời “đời tẻ nhạt như tàu không đổi chuyến”.
Không đi vào những xung đột gay gắt, những số phận thê thảm như những nhà văn hiện thực, Thạch Lam đã lặng lẽ góp nhặt những mảnh đời thường nhật, những nhịp sống quen nhàm bình lặng, những đốm sáng leo lét trong bóng tối tịch mịch để làm nên bức tranh hiện thực khó quên. Bức tranh hiện thực ấy có sức ám ảnh có lẽ bởi Thạch Lam đã vẽ bằng bút pháp lãng mạn. Cái lãng mạn của Thạch Lam không phải là sự tô hồng đời sống của người dân phố huyện theo kiểu tiểu thuyết lãng mạn của Tự lực văn đoàn. Lãng mạn của Thạch Lam là vẻ đẹp tiềm tàng ngay trong đời sống giản dị quanh ta.
Qua sự phân tích trên ta thấy, mặc dù có sự phân chia văn học Việt Nam giai đoạn 1900 -1945 thành những khuynh hướng khác nhau nhưng các khuynh hướng không tách bạch nhau mà trái lại hòa quyện, kết hợp với nhau trong những tác phẩm cụ thể. Chính điều này đã góp phần làm nên một diện mạo sống động cho văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XX.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét