Đề
bài: Vấn đề phân loại văn học Việt Nam từ 1900 – 1945 và sự giao thoa của các
khuynh hướng văn học.
Vận
dụng vào việc phân tích sự giao thoa, sự kết hợp của khuynh hướng lãng mạn và
hiện thực trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam.
BÀI
LÀM
Văn
học Việt Nam từ 1900 – 1945 tuy chỉ diễn ra không đầy nửa thế kỉ nhưng có vị
trí rất quan trọng trong tiến trình phát triển của lịch sử văn học Việt Nam. Đã
có nhiều nhà nghiên cứu hướng sự quan tâm của mình tới giai đoạn văn học này.
Tuy nhiên, có rất nhiều vấn đề vẫn chưa thể đi đến thống nhất. Một trong những
vấn đề vẫn còn gây nhiều tranh cãi đó sự phân loại văn học.
Phân
loại là phân chia đối tượng thành nhiều mảng để tìm hiểu. Khi tiến hành phân
loại văn học Việt Nam giai đoạn 1900–1945, các nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều ý
kiến khác nhau. Sự khác nhau này bắt nguồn từ sự khác nhau về tiêu chí phân
loại:
*
Từ 1955 – 1980: các nhà nghiên cứu đã
đưa ra thuật ngữ “dòng văn học”. Theo đó văn học Việt Nam thời kì 1900–1945 có
sự song hành chuyển hóa của ba dòng văn học: dòng văn học hiện thực, dòng văn
học lãng mạn và dòng văn học cách mạng. Thuật ngữ này có ưu điểm là từ nôm, dễ
hình dung nhưng “dòng” lại là một khái niệm mơ hồ. “Dòng” là khái niệm chỉ đội
ngũ, khuynh hướng hay trào lưu... là không rõ.
*
Từ những năm 1980 trở đi các nhà
nghiên cứu sử dụng khái niệm “khuynh hướng”. Tuy nhiên, nó vẫn không đủ để nhận
diện toàn bộ văn học mà phải phối hợp thêm với một tiêu chí nữa, đó là tiêu chí
“bộ phận”. Các nhà nghiên cứu đã dựa vào hai tiêu chí bộ phận: dựa vào sự lưu
hành và dựa vào tính hợp pháp để phân loại văn học thời kì này. Theo đó, toàn
bộ văn học 1900 – 1945 sẽ được phân chia thành văn học hợp pháp (công khai) và
văn học bất hợp pháp (bí mật). Thuộc về văn học công khai là văn học lãng mạn
và hiện thực, thuộc về văn học bí mật là văn học cách mạng.
*
Cách phân loại của đại học sư phạm:
xem xét văn học như một hoạt động của mĩ học, xem văn học như là ứng xử thẩm mĩ
của con người trước thực tại. Các khuynh hướng văn học xét đến cùng là khuynh
hướng của những ứng xử thẩm mĩ với thực tại. Theo đó, ba khuynh hướng trong văn
học Việt Nam 1900 – 1945 bao gồm: khuynh hướng lãng mạn, khuynh hướng hiện thực
và khuynh hướng cách mạng. Những khuynh hướng ấy không tách rời nhau mà luôn
song hành, chuyển hóa lẫn nhau để tạo nên một bức tranh văn học sống động.
Để
làm rõ hơn vấn đề này, người viết sẽ đi sâu phân tích sự giao thoa, kết hợp của
khuynh hướng lãng mạn và khuynh hướng hiện thực trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ”
của nhà văn Thạch Lam.
Giữa
văn học hiện thực và văn học lãng mạn có những đặc trưng riêng giúp ta có thể
phân biệt tác phẩm thuộc khuynh hướng văn học này hay khuynh hướng văn học kia.
Về tư duy nghệ thuật,
văn học lãng mạn như chiếc xe trở đầy cảm xúc. Trước hiện thực, nhà văn lãng
mạn không phân tích hiện thực mà chủ yếu là bộc lộ cái tôi, cái thế giới chủ
quan. Trong khi đó, thao tác phân tích thực tại lại là thao tác cơ bản của tư
duy hiện thực. Để có cái nhìn khách quan, để tỉnh táo quan sát và nắm bắt bản
chất hiện thực, nhà văn hiện thực phải hạn chế tình cảm, cảm xúc đến mức tối
đa.
Văn học lãng mạn có ba
đề tài cơ bản là thiên nhiên, tình yêu, tôn giáo. Văn học
hiện thực lại quan tâm đến xã hội, môi trường xã hội, đặc biệt là không gian
sinh tồn của con người. Vì thế, nó quan tâm đến khắc họa tính cách xã hội, hiện
trạng xã hội...
Về thể loại,
do gốc của văn học lãng mạn là cảm xúc cá nhân, là cái tôi nội cảm nên nó hay
tìm đến các thể loại trữ tình như thơ, tùy bút, tự truyện, truyện ngắn trữ
tình. Còn gốc của văn học hiện thực là xã hội, coi trọng khách quan nên thể
loại phổ biến của nó là phóng sự, truyện ngắn trào phúng, tiểu thuyết...
Có
thể nói, trên đây là những phương diện cơ bản để soi chiếu, để phân định khuynh
hướng văn học hiện thực và lãng mạn. Song trong thực tế sáng tác, hai khuynh
hướng này không phân định một cách rạch ròi mà đôi khi có sự chuyển hóa và các
nhà văn luôn có ý thức phát huy những tinh hoa của những tiếng nói văn học khác
để tự làm giàu khả năng nghệ thuật của mình.
Soi
rọi những lý thuyết về hiện thực và lãng mạn vào sáng tác của Thạch Lam, ta
thấy sự tồn tại của cả hai tính chất. Không những thế, sự đan xen giữa hiện
thực và lãng mạn còn xuất hiện ở ngay trong một tác phẩm. Chính điều này đã làm
nên nét đặc sắc trong phong cách nghệ thuật của Thạch Lam.
Thạch
Lam trước hết là một nhà văn lãng mạn. Yếu tố lãng mạn thấm đượm trong những
trang viết của ông. Ra đời trong không khí sôi động của các trào lưu văn học
giai đoạn 1930 – 1945, “Hai đứa trẻ” là một truyện ngắn hay, tiêu biểu cho
phong cách nghệ thuật của Thạch Lam. Thạch Lam đã tìm được lối biểu hiện riêng,
tạo ra được sức lôi cuốn, ám ảnh đặc biệt. Người đọc như bị hút ngay vào thiên
truyện trước hết bởi những câu văn mở đầu miêu tả khung cảnh buổi chiều quê đầy
thơ mộng, mang đậm dấu ấn của làng quê đất Việt: “Chiều, chiều rồi, một buổi chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái
kêu ran ngoài ruộng theo gió nhẹ đưa vào...”. Có buổi chiều nào êm như ru
trong cái nhìn của Nam Cao, Vũ Trọng Phụng? Chỉ có tâm hồn lãng mạn Thạch Lam
mới có cái nhìn mượt mà và đậm chất thơ đến thế. Qua ngòi bút của ông, phố
huyện tuy nghèo nhưng vẫn đáng yêu. Buổi chiều ở phố huyện là buổi chiều hiu
hắt, man mác buồn nhưng cũng không kém phần thi vị với bản hòa âm thôn dã tạo
nên từ những âm thanh quen thuộc của tiếng trống, tiếng ếch, tiếng muỗi...
những hình ảnh, màu sắc đậm chất hội họa phương Đông: hình ảnh phương tây đỏ
rực như lửa cháy, áng mây hồng, dãy tre làng đen lại. Bức tranh thiên nhiên
được miêu tả bằng những câu văn nhẹ nhàng, với nhịp điệu du dương như ru hồn
người, ru hồn hai đứa trẻ vào một thế giới thơ mộng. Phố huyện dưới ngòi bút
của Thạch Lam buồn nhưng không thê thảm, lạng lẽ nhưng vẫn ẩn một nét đẹp dân
dã, mang cái hồn của quê hương Việt Nam. Có thể nói, Thạch Lam đã chắt chiu
những cái đẹp tiềm tàng ngay ở trong cuộc sống giản dị quanh mình.
Yếu
tố lãng mạn của truyện còn là cái nhìn duy cảm trong nhân vật, là dòng tâm
trạng của con người. Đây là trục cảm trung tâm của truyện, mà trước hết là tâm
trạng của hai đứa trẻ trước cảnh chiều tàn. Liên và An là những đứa trẻ từng
sống ở Hà Nội, nay theo mẹ về vùng quê hẻo lánh. Liên ngồi trong không gian
bóng tối để những nỗi buồn quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ. Liên cảm nhận
được cái yên lặng của khung cảnh chiều quê quen thuộc. Đó là tiếng trống thu
không, là phương tây đỏ rực...gợi lên cái nhịp thời gian đang trôi, gieo vào
lòng người một sự nuối tiếc mơ hồ, có cái gì đó khó nắm bắt. Cùng với cảm giác
về thời gian còn là âm thanh tiếng ếch nhái văng vẳng ngoài đồng ruộng, tiếng
muỗi vo ve, mùi âm ẩm và mùi cát bụi quen thuộc....Đó là những xúc cảm rất quen
thuộc, thể hiện sự gắn bó với quê hương. Cảnh chợ tàn “người về hết và tiếng ồn ào cũng mất...” càng khiến lòng Liên thấm
đẫm nỗi buồn về cuộc sống xác xơ, tiêu điều, đang đi vào chiều tàn lụi. Từ quán
hàng chật hẹp nhỏ bé của mình, Liển hướng tầm mắt nhìn ra khung cảnh xung quanh
và càng thêm xót thương cho những kiếp người nhỏ bé mong manh. Liên thương xót
cho những đứa trẻ nghèo phải nhặt nhạnh tất cả những thứ còn xót lại của một
phiên chợ tàn. Liên chia sẻ với mẹ con chị Tí bằng sự thấu hiểu về cuộc sống tẻ
nhạt, quanh quẩn của mẹ con chị. Liên còn chia sẻ với sự ế ẩm của gánh phở bác
Siêu...Đó là cảm nhận về sự mong manh của kiếp nười trong tâm hồn của một cô
bé. Không những vậy Liên còn cảm nhận được cái tù túng trong cuộc sống của
chính bản thân mình: giam hãm trong gian hàng nhỏ, lắm muỗi...Trong tâm trạng
buồn, Liên hoài niệm về quá khứ và khao khát, hi vọng đợi chờ: đó là hi vọng
chờ đợi một chuyến tàu đêm đi qua. Liên chờ tàu không phải để bán hàng mà là
nhu cầu tinh thần hàng đêm. Bởi vậy, An dù buồn ngủ díu cả mắt vẫn cố dặn chị “tàu đến chị đánh thức em dậy nhé”. Hai
chị em Liên chờ đợi tàu trong tâm trạng háo hức, bồi hồi như chờ đợi phút giao
thừa thiêng liêng. Đoàn tàu đến trong sự mong chờ của cả hai chị em Liên. Liên
và An hướng cả hồn mình vào đoàn tàu “tiếng
còi đã rít lên và tàu rầm rộ đi tới”. Con tàu đã mang đến một thế giới khác
đi qua, một thế giới rực rỡ, vui vẻ và huyên náo – một thế giới khác hẳn với sự
nghèo khổ hàng ngày. Đoàn tàu không làm thay đổi cuộc sống nơi phố huyện nhưng
sự xuất hiện của nó đủ để lại niềm khao khát cho con người nơi đây.
Chất
lãng mạn còn toát lên từ những câu văn nhẹ nhàng như giăng mắc vào lòng người
nỗi thương cảm, ngậm ngùi, xót xa cho những kiếp sống khắc khoải.
Nhưng
không dừng lại ở chất lãng mạn, đối với Thạch Lam “văn chương không phải đem
đến cho người đọc sự thoát li hay sự quên, trái lại văn chương là một thứ khí
giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế
giới giả dối và tàn ác, làm cho lòng người được thêm trong sạch và phong phú”.
Chính vì vậy mà yếu tố lãng mạn và hiện thực đã hòa quyện nhau trong từng trang
viết của Thạch Lam.
Chất
hiện thực thể hiện rõ ở bức tranh phố huyện nghèo nàn với những cảnh đời mòn
mỏi, quẩn quanh, bế tắc. Đó là cảnh một phiên chợ vãn ở miền quê được tác giả
miêu tả chân thực đến từng chi tiết. Ống kính của nhà văn đã nhìn lại trên mặt
đất để thấy: rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn. Đó là cảnh sống nơi phố huyện.
Không ồn ào, không to tát, chỉ bằng những mảnh đời nhỏ bé như những lát cắt của
cuộc sống, Thạch Lam đã tái hiện chân thực cảnh sống quẩn quanh, nhàm tẻ nơi
phố huyện nghèo. Đó là gia đình chị Tí, ngày mò cua bắt ốc, tối dọn hàng. Dẫu
chẳng kiếm được là bao nhưng ngày nào chị cũng dọn từ chập tối cho đến đêm. Cả
gia tài của chị chỉ là một chõng hàng. Đây chính là một điển hình cho cuộc sống
lay lắt, ngoi ngóp nơi phố huyện. Đó chỉ là sự cầm chừng, sự tồn tại trong vô
vọng, không phải là sự sống thực sự. Hay là bà Thi điên với dáng đi lảo đảo và
tiếng cười khanh khách tan vào trong bóng đêm. Là bác Siêu với gánh phở của
mình hi vọng sẽ kiếm được chút gì để tồn tại, để cầm cự với sự sống. Là gia
đình bác Xẩm dùng lời ca tiếng hát của mình để kiếm sống. Nhưng ở cái nơi ăn
còn chẳng có thì người dân làm gì có thời gian để thưởng thức âm nhạc. Hay đó
là hai đứa trẻ - những mảnh đời đáng thương nhất... Chừng ấy mảnh đời, kiếp
người đã làm sống dậy hiện thực xã hội Việt Nam thời Pháp thuộc. Một xã hội sa
sút, tiêu điều, trì trệ, một xã hội đang “nổi váng lên”. Đó là xã hội của những
hình nhân biết cử động như trong thiên truyện “Tỏa nhị Kiều” của Xuân Diệu. Họ
thực sự là những con người sống một cuộc đời “đời tẻ nhạt như tàu không đổi
chuyến”.
Không
đi vào những xung đột gay gắt, những số phận thê thảm như những nhà văn hiện
thực, Thạch Lam đã lặng lẽ góp nhặt những mảnh đời thường nhật, những nhịp sống
quen nhàm bình lặng, những đốm sáng leo lét trong bóng tối tịch mịch để làm nên
bức tranh hiện thực khó quên. Bức tranh hiện thực ấy có sức ám ảnh có lẽ bởi
Thạch Lam đã vẽ bằng bút pháp lãng mạn. Cái lãng mạn của Thạch Lam không phải
là sự tô hồng đời sống của người dân phố huyện theo kiểu tiểu thuyết lãng mạn
của Tự lực văn đoàn. Lãng mạn của Thạch Lam là vẻ đẹp tiềm tàng ngay trong đời
sống giản dị quanh ta.
Qua
sự phân tích trên ta thấy, mặc dù có sự phân chia văn học Việt Nam giai đoạn
1900 -1945 thành những khuynh hướng khác nhau nhưng các khuynh hướng không tách
bạch nhau mà trái lại hòa quyện, kết hợp với nhau trong những tác phẩm cụ thể.
Chính điều này đã góp phần làm nên một diện mạo sống động cho văn học Việt Nam
những năm đầu thế kỉ XX.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét